Thục địa là gì?

Thục địa là một vị thuốc đông y vị ngọt, tính hàn, qui vào kinh Can, Tâm, Tỳ, Phế.
Thục địa là cây thân thảo sống lâu năm, cây được ứng dụng để bào chế thuốc. Một số đặc điểm nhận dạng Thục Địa như sau:

  • Cây cao tầm 20 – 30 cm. Lá thường mọc túm lại dưới gốc cây và mọc đối xứng ở các đốt thân.
  • Lá có hình bầu dục dài, mép có răng cưa, nhiều nếp nhăn. Lá gần gốc cây dài, hẹp.
  • Toàn thân có phủ một lớp lông trắng mềm, mịn.
  • Thuộc nhóm cây rễ củ, mỗi cây có 5 – 7 củ. Củ có cuống, vỏ có màu đỏ nhạt.
  • Hoa mọc thành chùm trên ngọn cây, có 5 cánh, đài có hình chuông. Bên ngoài hoa có màu đỏ tím, bên trong màu vàng có vân tím.
  • Quả bế đôi, hình tròn trứng, bên trong có nhiều hạt nhỏ màu nâu nhạt.

Thục địa hay còn gọi là địa hoàng thán, có tên khoa học là Rehmania glutinosa Libosch, họ hoa Mõm chó.

Thục địa, Công dụng, Dược tính, Bài thuốc chữa bệnh!
Thục địa, Công dụng, Dược tính, Bài thuốc chữa bệnh!

Phân bố:

Thục địa có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tại Việt Nam có thể tìm thấy Thục địa tại vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Thục địa được trồng phổ biến ở vùng núi cao phía Bắc nơi có khí hậu mát mẻ quanh năm. Thục địa là loại cây ưa bóng bán phần, ưa ẩm, điều kiện đất mùn pha thịt tơi xốp, giàu dinh dưỡng. Thục địa được thu hoạch chủ yếu vào đầu tháng 10 cho đến cuối tháng 1 năm sau. Thục địa sau khi được thu hoạch sẽ được sơ chế sạch sẽ, phơi khô và bảo quản để sử dụng lâu ngày.

Hiện tại, Thục địa đã được di thực về trồng tại các vườn dược liệu trên cả nước để làm thuốc.

Bộ phận dùng của cây thục địa:

Xem thêm

Theo một số chuyên gia đánh giá, phần củ của loại cây này có chứa nhiều dược chất nhất, vì vậy mà người ta sử dụng củ của nó để làm thuốc. Phần củ thục địa được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau.

Thành phần hóa học:

Theo nghiên cứu từ các nhà khoa học sức khoẻ Nhật Bản thì thành phần hoá học của thục địa được chia ra thành 3 nhóm chính như sau: Rehmannioside A, B, C, D, Ajugol, Leonuride, Aucubin, Catapol, Melittoside.

Glutinoside,monometittoside.Jioglutolide,JioglutinD, E, Ajugoside, Geniposide. Glucose, Arginine, Catalpol,Rehmannin,Campesterol, Stigmasterol, Manitol,  b-Sitosterol.

Những nghiên cứu khoa học về cây thục địa:

Từ năm 1958 nhập trồng ở nước ta, hiện nay được phát triển trồng ở nhiều nơi từ Bắc đến Nam. Nhân giống bằng những mầm rễ, mỗi mầm dài 1-2cm. Sau khi trồng 6 tháng rưỡi có thể thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch hai vụ vào các tháng 2-3 và 8-9. Chọn ngày nắng ráo để đào củ. Củ Địa hoàng tươi hình thoi hay hình trụ cong queo, dễ bẻ gẫy; mặt ngoài màu vàng đỏ, có những vùng thắt lại chia củ thành từng khoanh. Trên các rãnh có vết của mầm. Tuỳ theo cách chế biến, ta có Thục địa hoàng.

Cây thục địa vụ sớm bắt đầu thu hoạch vào đầu tháng 10, thu hoạch muộn thì vào cuối tháng 10 đến đầu tháng 1. Lúc thu hoạch trước hết cần cắt bỏ hết lá, thân cây từ đầu luống cuốc một rạch sâu 33cm gạt đất sang một bên lại tiếp tục lấy đất đào củ.

Nghiên cứu thực hiện trên chuột cống bằng cách gây viêm bằng Formalin ở chân và đùi. Sau khi được áp dụng nước sắc Thục địa, cho thấy dược liệu có tác dụng chống viêm (theo Trung Dược học).

Theo đông y:

Trục huyết, chấn cốt thủy, trương cơ nhục: Nấu nước uống có thể trừ hàn nhiệt tích tụ, làm cho cơ thể nhẹ nhàng, hạn chế lão hóa (theo Bản Kinh).

  • Bồi bổ khí huyết hư, hỗ trợ lưu thông máu (theo Trân Châu Nang).
  • Chủ trị nam bị ngũ lao bất thường, phụ nữ bị thương trung, hạ huyết, lưu thông huyết mạch (theo Biệt Lục).
  • Bồi bổ cơ thể, hạ huyết, sử dụng lâu năm có thể tăng tuổi thọ (theo Dược Tính Luận).
  • Dưỡng âm, thoái dương, sinh huyết, điều trị tâm phiền, bứt rứt, điều kinh, an thai, lợi tiểu (theo Bản Thảo Tùng Tân). Tẩm với nước gừng điều trị đầy ở ngực, sử dụng với rượu thì không làm hại dạ dày (theo Bản Thảo Cương Mục).
  • Bổ thận, ích âm huyết (theo Bản Thảo Kinh Sơ).

Theo đông y cổ truyền thục địa là vị thuốc chủ yếu để bổ Thận, thuốc tốt nhất để dưỡng âm. Thục địa là thuốc vị “quân” trong nhiều cổ phương, như: Lục vị địa hoàng hoàng hoàn (thục địa, hoài sơn, sơn thù, đơn bì, trạch tả, bạch linh) hay bài Tứ vật (thục địa, bạch thược, đương quy, xuyên khung)…

Công dụng của thục địa:

Nước sắc từ thân cây Thục địa còn có tác dụng cầm máu, lợi tiểu, kháng nấm, hạ áp, tăng cường sức khỏe tim mạch, bảo vệ gan và chống lại các chất phóng xạ.

Có tác dụng hạ đường huyết. Một số nghiên cứu trên chuột cho thấy Thục địa làm tăng đường huyết nhưng không làm tăng nồng độ đường trong máu (theo Trung Dược Học)

Có tác dụng ức chế miễn dịch tương tự như Corticosteroid. Tuy nhiên, dược liệu không làm teo nhỏ vỏ thượng thận (theo Trung Dược học).

Có tác dụng nuôi thận, dưỡng âm, bổ thận, làm đen râu tóc, kinh nguyệt không đều, tiêu khát, âm hư, ho suyễn.

Một số bài thuốc của cây thục địa:

Bài thuốc trị đại dịch khó cứu, ôn độc phát ban:

Thục địa 240g, đậu xị 480g, mỡ lợn 960g, hùng hoàng và xạ hương kích thước bằng hạt đậu. Mang tất cả nguyên liệu đi nấu sôi 5, 6 lượt. Đến khi cạn còn 3 phần đến cho thêm Hùng hoàng, Xạ hương trộn đều và uống.

Chữa bệnh cao huyết áp:

Thục địa 12g, Ngũ vị tử 8g, Sơn dược 20g, Thái tử sâm 16g đem sắc với 2 bát nước lớn còn nửa, đổ bát, để nguội uống sau bữa ăn 30 phút có tác dụng chữa bệnh huyết áp cao.

Chữa sinh lý yếu ở nam giới:

40g thục địa, 100g ngài tằm khô, 50g ba kích, 30g sơn thù, 30g ngưu tất, 50g dâm dương hoắc, 20g hẹ đem ngâm với 1 lít rượu trong vòng 10 ngày có tác dụng chữa sinh lý yếu ở nam giới. Dùng đều đặn mỗi ngày 30ml sau bữa ăn tôi trong vòng 3 tháng sẽ thấy hiệu nghiệm.

Điều hòa kinh nguyệt:

Thục địa 16g, đảng sâm 16g, bạch thược 12g, đương  quy, hoàng kỳ, xuyên khung, mỗi thứ 8g đem sắc với 1 lít nước thành 2 lượt, trộn đều chia đều 2 bữa uống sau bữa ăn để điều hoà kinh nguyệt.

Trị máu cam, ngực có nhiều nhiệt:

An địa hoàng, bạc hà, long não. Mỗi vị thuốc phân lượng bằng nhau, dùng uống với nước lạnh.

Trị táo bón:

Thục địa, hầm chung cùng thịt lợn nạc, lấy nước uống hằng ngày có tác dụng trị táo bón. Áp dụng liên tiếp trong 3-5 ngày bệnh sẽ khỏi dứt điểm.

Trị huyết trưng:

Can địa hoàng 40 gam, Ô tặc cốt 80 gam tán thành bột, trộn với mật ong vê thành viên để trị huyết trưng. Mỗi lần uống 2 viên sau bữa ăn trong vòng 5-7 ngày.

Trị cột sống thoái hóa và viêm cột sống:

Thục địa 30kg, Nhục thung khoảng 20kg sấy khô đều và tán bột. La bạc tử 10kg, Kê huyết đằng Cốt toái bổ, Dâm dương hoắc đều 20kg nấu thành cao, tạo viên, bỏ lọ sử dụng lâu dài để trị bệnh cột sống bị thoái hoá. Mỗi ngày uống 2g trước bữa ăn 30 phút với nước ấm để bài thuốc phát huy hiệu quả.

Lưu ý:

Thục địa có tính hàn do đó khi dùng trị bệnh nên tránh sử dụng chung với các vị bối mẫu, vô di, tam bạch, la bặc, phỉ bạch, thông bạch, cửu bạch. Tác dụng phụ của thục địa bao gồm: đau bụng, tiêu chảy, chóng mặt, hồi hộp, buồn nôn nên chú ý theo dõi khi dùng. Dùng thục địa theo sự chỉ dẫn của y bác sĩ để đạt được hiệu quả cao nhất!

Những thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo, tuyệt đối không tự ý bốc thuốc theo thang hướng dẫn. Để biết thêm thông tin cụ thể vui lòng tham khảo ý kiến của thầy thuốc trước khi sử dụng.