Xuất xứThụy Sĩ
Quy cáchHộp 3 vỉ x 10 viên
Thương hiệuNovartis

Thuốc Femara 2.5mg có nguồn gốc, xuất xứ từ Thụy Sỹ và được nhập khẩu trực tiếp về Việt Nam. Được cấp phép bởi cục quản lý dược – Bộ Y tế. Thuốc có tác dụng dùng để điều trị bổ trợ cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn đầu, điều trị ung thư vú tiến triển ở phụ nữ mãn kinh tự nhiên hoặc nhân tạo, …

Tìm cửa hàng Mua theo đơn
Chat với dược sĩ Tư vấn thuốc & đặt hàng
Thuốc này chỉ dùng theo đơn của bác sĩ. Mời bạn Chat Zalo với dược sĩ hoặc đến nhà thuốc Thân Thiện để được tư vấn.
Sản phẩm đang được chú ý, có 5 người thêm vào giỏ hàng & 18 người đang xem

THÂN THIỆN CAM KẾT

  • Cam kết hàng chính hãng
  • Đổi trả hàng trong 30 ngày
  • Xem hàng tại nhà, thanh toán
  • Hà Nội ship ngay sau 2 giờ

Thuốc Femara 2.5mg là gì

Thuốc Femara 2.5mg là thuốc bán theo đơn, sử dụng dưới sự chỉ dẫn của bác sỹ. Thành phần dược chất chính gồm có Letrozole hàm lượng 2,5mg. Thuốc được bào chế dưới dạng viên nén bao phim, dùng trực tiếp theo đường uống. Thuốc có tác dụng để điều trị bổ trợ kéo dài cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn đầu trước đây đã được trị liệu bổ trợ chuẩn bằng tamoxifen, …

Công dụng – chỉ định của Thuốc Femara 2.5mg

Femara 2.5mg được chỉ định

  • Điều trị bổ trợ cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn đầu, có thụ thể hormone dương tính;

  • Trị liệu đầu tay cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến triển phụ thuộc hormone;

  • Điều trị ung thư vú tiến triển ở phụ nữ mãn kinh tự nhiên hoặc nhân tạo, trước đây đã được điều trị với các thuốc kháng estrogen;

  • Điều trị bổ trợ kéo dài cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn đầu trước đây đã được tri liệu bổ trợ chuẩn bằng tamoxifen;

  • Điều trị tiền phẫu thuật ở phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú khu trú với thụ thể hormone dương tính, để cho phép phẫu thuật bảo tồn vú ờ phụ nữ vốn không được xem là đối tượng cho loại phẫu thuật này. Điều trị tiếp tục sau phẫu thuật cần theo đúng trị liệu chuẩn.

Sản phẩm đã được Cục Dược – Bộ Y tế cấp phép dưới dạng thuốc kê đơn, chỉ bán theo đơn của bác sỹ. Nếu cần thêm thông tin, xin hỏi ý kiến bác sĩ. Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng. Để xa tầm tay trẻ em.

Thành phần của Thuốc Femara 2.5mg

Xem thêm

Thuốc Femara 2.5mg bao gồm những thành phần chính như là

2,5 mg letrozole

Tá dược: Silic dạng keo khan, cellulose vi tinh thể, lactose monohydrat, magnesi stearat, tinh bột ngỏ, tinh bột natri glycollạte, hydroxypropyl methylcellulose, polyethylene glycol 8000, talc, titan dioxid (E 171), oxid sắt màu vàng (E 172).

Hướng dẫn sử dụng Thuốc Femara 2.5mg

Thuốc Femara 2.5mg cần phải sử dụng theo chỉ định của bác sĩ, không được tự ý sử dụng. 

Dưới đây là liều lượng tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh.

Cách dùng

Thuốc dùng theo đường uống

Liều dùng

Người lớn và bệnh nhân cao tuổi

  • Liều Femara được khuyến cáo là 2,5 mg, 1 lần/ngày. Trong điều trị bổ trợ và bổ trợ kéo dài, nên tiếp tục dùng Femara trong 5 năm hoặc cho đến khi có tái phát khối u, tùy theo sự kiện nào đến trước, ở bệnh nhân bị di căn, cần tiếp tục điều trị bằng Femara cho đến khi thấy rõ sự tiến triển của khối u. Không cần chỉnh liều ở bệnh nhân cao tuổi.

Trẻ em

  • Không dùng thuốc này cho trẻ em.

Bệnh nhân bị suy gan và/ hoặc suy thận

  • Không cần chỉnh liều đối với bệnh nhân bị suy gan hoặc suy thận (độ thanh thải creatinine £ 10 mL/phút). Tuy nhiên, cần giám sát chặt chẽ bệnh nhân bị suy gan nặng (chỉ số Child-Pugh loại C) (xem phần DƯỢC ĐỘNG HỌC).

Cần làm gì khi một lần quên không dùng thuốc?

  • Khi bạn một lần quên không dùng thuốc, chỉ cần uống liều tiếp theo và tiếp tục dùng thuốc theo liệu pháp đã được khuyến cáo.
  • Không được gấp đôi liều để bù vào liều đã quên.

Chống chỉ định sử dụng Thuốc Femara 2.5mg

Cisplatin Bidiphar 10mg/20ml điều trị ung thư tinh hoàn đã di căn
Thuốc Cisplatin Bidiphar 10mg/20ml là gì Thuốc Cisplatin Bidiphar 10 mg/20ml thuộc nhóm thuốc hóa trị chống...
0

Để tránh gặp phải những phản ứng phụ không mong muốn thì những đối tượng sau đây không nên sử dụng:

  • Tình trạng nội tiết tiền mãn kinh; có thai, cho con bú (xem phần PHỤ NỮ có THAI VÀ CHO CON BÚ và CÁC Dữ LIỆU AN TOÀN TIỀN LÀM SÀNG).
  • Quá mẫn cảm với hoạt chất hoặc với bất kỳ thành phần nào của tá dược

Cảnh báo và thận trọng trong quá trình sử dụng Thuốc Femara 2.5mg

Trong quá trình sử dụng Thuốc Femara 2.5mg, quý vị cần thận trọng với những trường hợp sau:

Tác động trên xương

  • Đã có báo cáo về loãng xương và/hoặc gãy xương khi dùng Femara. Vì vậy khuyến cáo theo dõi độ chắc của xương trong suốt thời gian điều trị (xem các phần TÁC DỰNG KHÔNG MONG MUỐN và DƯỢC LỰC HỌC).

Suy thận

  • Fermara chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân có độ thanh thải creatinine < 10 mUphút. cần cân nhắc cẩn thận giữa lợi ích và nguy cơ có thể xày ra đối với những bệnh nhân này trước khi dùng Femara.

Suy gan

  • Ở bệnh nhân bị suy gan nặng (chỉ số Child-Pugh loại C), phơi nhiễm toàn thân và thời gian bán hủy cuối cùng xáp xỉ gấp đôi so với người tinh nguyện khỏe mạnh. Vì vậy những bệnh nhân này phải được giám sát chặt chẽ (xem phần DƯỢC ĐỘNG HỌC).

Sử dụng Thuốc Femara 2.5mg cho phụ nữ có thai và cho con bú

Có thai

Chống chỉ định dùng Femara trong khi cỏ thai (xem phần CHỐNG CHỈ ĐỊNH).

Các trường hợp chì có đơn độc một dị tật bẩm sinh (dinh mói bé hoặc môi lớn, cơ quan sinh dục không rõ ràng) đã được báo cáo ờ các phụ nữ có thai dùng Femara (xem phần CÁC DỮ LIỆU AN TOÀN TIỀN LÂM SÀNG)

Phụ nữ có khả năng mang thai

Thầy thuốc cần thảo luận về việc nhất thiết phải có biện pháp ngừa thai đầy đủ với những phụ nữ có khả nâng mang thai bao gôm cà những người trước, trong và sau giai đoạn mãn kinh hoặc những người mới mãn kinh cho đến khi tinh trạng sau mãn kinh đã xác định hoàn toàn (xem phần CÁC DỮ LIỆU AN TOÀN TIỀN LÂM SÀNG).

Cho con bú

Chống chỉ định dùng Femara trong khi cho con bú (xem phần CHỐNG CHỈ ĐỊNH)

Ảnh hưởng của Thuốc Femara 2.5mg lên khả năng lái xe và vận hành máy móc

Vì mệt mỏi và chóng mặt đã được ghi nhận khi sử dụng Femara và thinh thoảng có báo cáo về buồn ngủ, nên thận trọng khi lái xe hoặc sử dụng máy móc.

Tương tác, tương kỵ của Thuốc Femara 2.5mg

  • Đến nay chưa có kinh nghiệm lâm sàng về việc dùng Femara phối hợp với các thuốc chống ung thư khác.
  • Letrozole ức chế in vitro, các cytochrome P45ũ-isozyme 2A6 và ức chế vừa phải đối với 2C19. CYP 2A6 không đóng vai trò chù yếu trong sự chuyển hóa thuốc. Trong các thử nghiệm in vitro, letrozole thực chất không thể ức chế sự chuyển hóa diazepam (một cơ chất của CYP2C19) ở nồng độ cao hơn khoảng 100 lần so với nồng độ quan sát được trong huyết tương ờ trạng thái ổn định. Vì vậy, không chắc xày ra những tương tác có liên quan trên lâm sàng với CYP2C19. Tuy nhiên, cần thận trọng khi dùng đồng thời các thuốc có khuynh hướng phụ thuộc chủ yếu vào các isoenzyme này và thuốc có chỉ số điều trị hẹp.
  • Các nghiên cứu về tương tác trên lâm sàng với cimetidine và warfarin cho thấy việc sử dụng phối hợp Femara với những thuốc này không gây ra tương tác thuốc đáng kể trên lâm sàng.
  • Một đánh giá các dữ liệu của thử nghiệm lâm sàng cho thấy không có chứng cứ về các tương tác lâm sàng khác có liên quan với các thuốc thường được kê đơn khác.

Tác dụng phụ của thuốc Femara 2.5mg

Trong quá trình sử dụng Femara 2.5mg thì có thể sẽ gặp 1 số phản ứng phụ không mong muốn như sau:

Nói chung Femara được dung nạp tốt qua tất cà các nghiên cứu như là một trị liệu đầu tay vá trị liệu thứ hai đối với ung thư vú tiến triển, là điều trị bồ trợ đối với ung thư vú giai đoạn đầu và điều trị bổ trợ kéo dài cho phụ nữ trước đây đâ có trị liệu chuẩn bằng tamoxifen Khoảng 1/3 bệnh nhân được điều trị bằng Femara trong nhóm có di căn và điều trị tàn bổ trợ, khoảng 75% bệnh nhân trong nhóm bổ trợ (cà 2 nhóm Femara và tamoxifen, với thời gian điều trị trung bình là 60 tháng) và khoảng 80% bệnh nhân trong nhóm bổ trợ kéo dài (cả 2 nhóm Femara và giả dược, với thời gian điều trị trung bình là 60 tháng) gặp các phàn ứng bất lợi. Nói chung về bàn chất, các phản ứng bất lợi quan sát được chủ yếu là nhẹ hoặc trung bình, và hầu hết có liên quan với sư thiếu estrogen

Các phản ứng bất lợi thượng gặp nhất trọng các nghiên cứu lâm sáng là nóng bừng, đau khớp, buồn nôn vá mệt mỏi. Nhiều phàn ứng bất lợi có thể quy cho là hậu quà dược lý thông thường do sự thiếu hụt estrogen (ví dụ nóng bừng mặt, rụng tóc vá chảy máu âm đạo).

Các phản ứng phụ của thuốc sau đày được liệt kê trong Bảng 1 đã được báo cáo từ các thử nghiệm lâm sàng và từ kinh nghiệm hậu mãi với Femara.

Các phản ứng phụ được xếp loại theo đề mục về tần suất, đầu tiên là hay gặp nhất, sử dụng quy ước sau đây: rất hay gặp (> 1/10), hay gặp (a 1/100, < 1/10), ít gặp (> 1/1000, < 1/100), hiếm gặp (ì 1/10.000, < 1/1000), rất hiếm gặp (< 1/10.000), bao gồm cả các báo cáo lẻ tẻ.

Bảng 1

Nhiễm khuẩn và nhiễm ký sính trùng

It gặp

Nhiễm trùng đường tiểu
u tân sinh lãnh tính, ác tính và không đặc hiệu (bao gồm nang và polyp)

Ít gặp

Đau do khối u6)
Rối loạn về máu và hệ bạch huyết

Ít gặp

Giảm bạch cầu
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng

Hay gặp

ít găp

Chán ăn, tăng ngon miệng, tăng cholesterol máu

Phù nề toàn thân

Rối loạn tâm thần

Hay gặp

ít gặp

Trầm cảm

Lo âu1)

Rối loạn hệ thần kinh

Hay gặp

ít gặp

Nhức đầu, chóng mặt

Buồn ngủ, mất ngủ, giảm trí nhờ, rốt loạn cảm giác21, rối loạn vị giác, tat biền mach mâu não, hội chứng ổng cổ tay

Rối loạn ở mắt

ít gặp

Đục thủy tinh thể, kích ứng mắt, nhìn mờ
Rối loạn ở tim

Ít gặp

Đánh trống ngực, nhịp tim nhanh
Rối loạn mạch

ít gặp

Hiếm gặp

Viêm tĩnh mạch huyết khối31, tăng huyết áp, các biến cố do tim thiếu máu cục bộ7,31

Thuyên tắc phổi, huyết khối động mạch, nhồi máu mạch máu não.

Rối loạn hô hấp, ngực và trung thất ít gặpKhó thở, ho
Rối loạn tiêu hóa

*

Hay gặp

ít gặp

Buồn nôn, nôn, khó tiêu, táo bón, tiêu chảy

Đau bụng, viêm miệng, khó miệng

Rối loạn gan mật

Ít gặp

Rất hiếm găp

Tăng men gan

Viêm gan

Rổi loạn da và mô dưới da

Hay gãp

ít gặp

Rất hiếm gặp

Rụng tóc, tăng đổ mồ hôi, nổi ban 4|.

Ngứa, da khô, nổi mề đay

Phú mạch, phàn ứng phàn vệ, hoại từ thượng bi nhiễm độc, hòng ban đa dạng

Rối loạn cơ xương và mô liên kết

Rất hay gặp

Hay gặp

ít gặp

Không rõ (9>

Đau khớp

Đau cơ, đau xương, loãng xương, gãy xương

Viêm khớp

Ngón tay cò súng (trigger finger)

Rối loạn thận và tiết niệu ít gặp ‘Tiểu nhiều lần.
Rối loạn hệ sinh sản và rối loạn ở vú ít gặpChảy máu âm đạo, tiết dịch âm đạo, khô âm đạo, đau vú
Rối loạn toàn thân và tinh trạng tại chỗ tiêm thuốc

Rất hay gặp

Hay gặp

It gặp

Nóng bừng

Mệt mỏi51, phù ngoại biên

Sốt, khô niêm mạc, khát

Nghiên cứu

Hay gặp ít gặp

Tăng cãn

Sụt cân

  1. bao gồm bồn chồn, cáu kỉnh
  2. bao gồm dị cảm, giảm cảm giác
  3. bao gồm viêm tĩnh mạch huyết khối nông và sâu
  4. bao gồm ban đỏ, ban dát sần, ban dạng vảy nến và mụn nước
  5. bao gồm suy nhược và khó chịu
  6. trong trường hợp di cân/điều trị tân bổ trợ
  7. /a>trong trường hợp điều trị bổ trợ, bất kể do nguyên nhân nào, các phản ứng bất lợi sau đây đã xảy ra trong nhóm dùng Femara vá nhóm dùng tamoxifen theo thứ tự tương ứng: thuyên tắc huyết khối (2,1% so với 3,6%), đau thắt ngực (1,1% so với 1,0%), nhồi máu cơ tim (1,0% so VỚI 0,5%) và suy tim (0,8% so vời 0,5%) (xem phần DƯỢC Lực HỌC – Điều trị bổ trợ)
  8. Trong chế độ đĩều trị bổ trợ kéo dài, với thời gian điều trị trung bình là 60 tháng với letrozole và 37 tháng với giả dược, các phản ứng phụ của thuốc sau đây đã được báo cáo tương ứng với Femara và giả dược (không bao gồm các trường hợp chuyển sang dùng Femara): đau ngực mới hoặc nặng lên (1 4% so với 1,0%); đau ngực cần phải phẫu thuật (0,8% so với 0,6%); nhồi máu cơ tim (1,0% so với 0 7%), biến cố thuyên tẳc mạch huyết khối (0,9% so với 0,3%); đột quy/TIA (1,5% so với 0.8%)

(xem phần Dược Lực HOC – Điều trị bổ trợ kéo dài)

Chắc chắn tần suất của các phản ứng này, vì thế gọi là “không rõ”

Thông báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.

Quá liều và cách xử trí

Đã ghi nhận các trường hợp lẻ tẻ về quá liều với Femara

Chưa rõ biện pháp điều trị đặc hiệu cho trường hợp quá liều, biện pháp xử lý là điều trị triệu chứng và điều trị hỗ trợ

Khi nào cần tham vấn bác sỹ

Cần tham vấn ý kiến bác sỹ khi:

  • Có bất kỳ phản ứng không mong muốn nào xảy ra.
  • Trẻ em dùng thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sỹ.
  • Nếu bạn có thai hoặc đang cho con bú, tham vấn bác sỹ trước khi dùng thuốc.

Đặc tính dược lực học

Các đặc tính dược lực học

Việc loại trừ tác dụng kích thích qua trung gian estrogen là điều kiện tiên quyết để tạo được đáp ứng của khối u trong những trường hợp mà sự phát triển mõ khối u phụ thuộc vào sự hiện diện của estrogen, ở phụ nữ sau mãn kinh, estrogen chủ yếu được tạo thành nhờ tác động của enzyme aromatase là chất biến đối androgen của tuyến thượng thận – chủ yếu là androstenedione và testosterone – thành oestrone (E1) vá oestradiol (E2). Vì vậy, sự ức chế sinh tổng hợp estrogen ở mô ngoại biên và mô ung thư có thể đạt được do sự ức chế chuyên biệt enzyme aromatase.

Letrozole là một chất ức chế aromatase không steroid. Chất này ức chế enzyme aromatase bằng cách cạnh tranh gắn yào hem cùa tiều đơn vị cytochrome P4È0 của enzyme, dẫn đến giảm sinh tăng hợp estrogen ở tất cả các mô.

Ở phụ nữ saụ mãn kinh khỏe mạnh, các liều đơn 0,1 mg, 0,5 mg và 2,5 mg letrozole ức chế oestrone huyết thanh từ 75-78% và ức chế oestradiol 78% so với mức ban đằu. Sự ức chế tối đa đạt được từ 48-78 giờ.

Ở bệnh nhân sau mãn kinh bị ung thư vú tiến triển, tiều dùng 0,1-5 mg/ngày ức chế nồng độ oestradiol, oestrone và oestrone sulphate trong huyết tương từ 75-95% so với mức ban đầu ở tất cả bệnh nhân được điều trị. Với liều 0,5 mg và cao hơn, các nồng độ oestrone và oestrone sulphate ở thấp hơn giới hạn có thể phát hiện được trong các thừ nghiệm, cho thấy ìà sự ức chế estrogen đạt được nhiều hơn khi dùng những liều này. Sự ức chế estrogen được duy trì trong suốt thời gian điều trị ở tất cả các bệnh nhân

Letrozole có tính đặc hỉệu cao trong việc ức chế hoạt động của aromatase. Chưa ghi nhận sự giảm sinh steroid cùa tuyến thượng thận. Chưa thấy những thay đổi có liên quan về lâm sàng về các nồng độ cùa cortisol, aldosterone, 11-deoxycortisol, 17-hydroxy-progesterone và ACTH trong huyết tương, hoặc hoạt tính cùa renin trong huyết tương trong số những bệnh nhân sau 1 mãn kinh được điều trị với liều letrozole 0,1-5 mg/ngày. Thử nghiệm kích thích ACTH được thực hiện sau 6-12 tuần điều trị với liều 0,1 mg, 0,25 mg. 0,5 mg, 1 mg, 2,5 mg và 5 mg không cho thấy sự suy giảm nào về sản xuất aldosterone hoặc cortisol. Vì vậy, không cần bổ sung glucocorticoid và corticoid khoáng

Không có thay đổi nào được ghi nhận về nồng độ androgen trong huyết tương (androstenedione và testosterone) ở những phụ nữ sau mãn kinh khỏe mạnh sau khi dùng các liều đơn 0,1 mg, 0,5 mg và 2,5 mg letrozole hoặc thay đổi về nồng độ androstenedione trong huyết tương ở những bệnh nhân sau mãn kinh được điều trị liều 0,1-5 mg/ngày, cho thấy là sự ức chế sinh tổng hợp estrogen không dẫn đến tích lũy các tiền chất của androgen. Các nồng độ LH và FSH trong huyết tương không bị ảnh hường bởi letrozole ờ bệnh nhân, chức năng tuyến giáp cũng không bị ảnh hưởng khi được đánh giá bằng thử nghiệm dùng TSH, T4 vá T3.

Điều trị bổ trợ

Nghiên cứu BIG 1-98

BIG-98 là một nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi đa trung tâm với trên 8.000 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn đầu có thụ thể hormone dương tinh vá đã phẫu thuật cắt bỏ u, với một trong các nhóm điều trị sau:

  • A. tamoxifen trong 5 năm • B Femara trong 5 năm
  • c. tamoxifen trong 2 nám sau đó dùng Femara trong 3 năm
  • D. Femara trong 2 năm sau đó dùng tamoxifen trong 3 năm

Nghiên cứu này được thiết kế để trả lời hai câu hỏi chính: liệu dùng Femara trong 5 năm có tốt hơn dùng tamoxifen trong 5 năm (Phân tích cốt lõi chinh và Phân tích các nhóm đơn trị liệu) và liệu việc chuyển sang điều trị bằng nội tiết trong 2 năm có tốt hơn việc tiếp tục điều trị bằng một loại thuốc trong suốt 5 năm (Phàn tích điều trị tiếp theo).

Kết cuộc chính là còn sống không mắc bệnh (DFS), kết cuộc phụ là còn sống nói chung (OS), còn sống không mắc bệnh trong thời gian dài (DDFS), còn sống không mắc bệnh toàn thân (SDFS), ung thư vú hai bên xâm lấn và thời gian đến lúc bị di căn xa.

Kết quả sau thời gian theo dõi trung bình 26 tháng

Các dữ liệu ở Bảng 2 phản ánh kết quả của Phân tích cốt lõi chính (PCA) bao gồm các dữ liệu từ nhóm không chuyển sang điều trị khác (các nhóm A và B) cùng các dữ liệu đã được rút lại còn 30 ngày sau khi chuyển sang điều trị khác ở 2 nhóm chuyển (các nhóm c và D). Phân tích này được tiến hành khi thời gian điều trị trung bình là 24 tháng và thời gian thẹo dõi trung bình là 26 tháng Dùng Femara trong 5 năm tốt hơn dùng tamoxifen về tất cà các kết cuộc ngoại trừ còn sống nói chung và ung thư vú hai bên

Bàng 2 số còn sống không mắc bệnh và còn sống nói chung (nhóm PCA ITT) với thời gian theo dõi trung bình 26 tháng

Femara

N = 4003

Tamoxifen

N = 4007

Tỳ số nguy cơ (95% cí)Trị số p’
Còn sống không mắc bệnh (kết cuộc chính)

Các trường hợp (toàn bộ, xác định qua đề cương nghiên cứu)

3514280,81 (0,70, 0,93)0,0030
Thời gian đến lúc bị di căn xa (kết cuộc phụ)1842490,73 (0,60, 0,88)0,0012
Cón sống không mắc bệnh trong thời gian dài (kết cuộc phụ)2653180,82 (0,70, 0,97)0,0204
Còn sống nói chung (kết cuộc phụ)

Số tử vonq (tổnq số)

1661920,86 (0,70, 1,06)0,1546
Còn sống không mắc bệnh toàn thân (kết cuộc phụ)3233830,83 (0,72, 0,97)0,0172
Ung thư vú hai bên (xâm lấn) (kết cuộc phụ)19310,61 (0 35, 1,08)0,0910
Cl = khoảng tin cậy
  1. Phép thử Logrank, được phân tầng bảng cách chọn ngẫu nhiên và sử dụng hóa liệu pháp bổ trợ trước

Kết quả MAA với thời gian theo dõĩ trung bình 73 tháng

Phân tích các nhóm đơn trị liệu (MAA) trong đó bao gồm các dữ liệu về các nhóm đơn trị liệu, chỉ cung cấp thông tin cập nhật trong thời gian dài thích hợp về mặt lâm sàng về hiệu quả của đơn trị liệu Femara so sánh với đơn trị liệu tamoxifen (Bảng 3). Trong năm 2005, dựa trên các dữ liệu PCA được trình bày trong bàng 2 và trong khuyển cáo bời Hột đồng Kiểm soát Dữ liệu độc lập, các nhóm đơn trị liệu tamoxifen được biết tận thuốc và bệnh nhân được phép chuyển sang dùng Femara. 26% bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên đã chuyển sang dùng Femara – bao gồm cà một số lượng rất nhỏ bệnh nhân chuyển sang dùng các thuốc ức chế aromatase khác. Để tìm hiểu ảnh hựởng của việc chuyển đổi có lựa chọn này, theo dõi kiểm duyệt phân tích vào ngày chuyển đổi có lựa chọn (trong nhóm dùng tamoxifen) được tảng kết cho MAA (Bâng 4)

Với thời gian theo dõi trung binh 73 tháng và thời gian điều trị trung bình 60 tháng, nguy cơ của DSF giảm một cách đáng kể khi dùng Femara so với tamoxifen (phân tích MAA ITT: HR ũ 88%; Cl 95% 0.78. 0,99; p = 0,03); khẳng định các kết quà cùa PCA 2005 Phân tích có kiểm duyệt của DFS cho thấy lợi ích tựơng tự nhau (HR ũ 85%, Cl 95% 0,75, 0,96). Tương tự như vậy, phân tích cặp nhật cũng khẳng định sự vượt trội của Femara trong làm giảm nguy cơ của các trường hợp còn sống không mắc bệnh trong thời gian dài (HR 0.87% 0,76, 1,00) và tăng thời gian đền lúc di căn xa (HR 0.85%; Cl 95% 0,72, 1,00). Hơn nữa, số còn sống nói chung theo xu hướng cỏ ý nghĩa trong phân tích ITT. Phăn tích có kiểm duyệt của số còn sống nói chung cho thấy lợi ích lớn hơn đáng kể (HR 0.82% 0,70, 0,96) ưu thế của nhóm dùng Femara.

Số còn sống không mắc bệnh và còn sống nói chung (nhóm MAA ITT) với thời gian theo dõi trung bình 73 tháng

Femara

N = 2463

Tamoxifen

N = 2459

Tỳ số nguy cơ (95% cĩ)Trị sổ p’
Còn sống không mắc bệnh (kết cuộc chinh)

Các trường hợp (toán bô, xác đinh qua đề cương nghiên cứu)

5095650,88 (0,78, 0,99)0,03
Thời gian bị di căn xa (kết cuộc phụ)2572980 85 (0.72, 1.00)0,045
Còn sống không mắc bệnh trong thời gian dài (di căn)(kết cuộc phu)3854320 87 (0 76. 1 00)0,049
Còn sống nói chung (kết cuộc phụ)

Số tử vong (tổng số)

3033430 87 (0.75, 1 02)0,08
Còn sống không mắc bệnh toàn thân (kết cuộc phụ)4655120 89 (0.79, 1 01)0,065
Ung thư vú hai bên (xâm lẩn) (kết cuộc phụ)34440 76 (0 49, 1.19)0,2
Phân tích có kiểm duyệt của DFS5095430 85 (0.75, ũ 96)
Phân tích có kiểm duyệt cúa số còn sổng nói chung3383380 82 (0 70, 0 96)
Cl = khoảng tin cậy

1 Phép thử Logrank, được phân tầng bằng cách chon ngẫu nhiên và sử dụng hóa liệu pháp bổ trợ trước.

Bảng 3

Phân tích điều trị tiếp theo

Phân tích điều trị tiếp theo (STA) được tíển hành với thời gian theo dõi trung bình là 48 tháng tập trung vào câu hỏi chính thứ hai của nghiên cứu Phân tích chính cho STA là từ nhóm chuyền (hoặc các nhóm đơn trị liệu trong cùng thời gian ) + 30 ngày (STA-S) với phép thử hai- bên áp dụng cho Việc so sánh từng cặp nhóm ở mức 2,5%. Thêm nữa, việc phân tích thăm dò cũng được tiến hành từ lúc xếp ngẫu nhiên (STA-R) với thời gian theo dõi trung bình là 67 tháng, với kết quả của mỗi sự so sánh được tổng kết bởi các tỷ số nguy cơ và khoảng tin cậy 99%.

Với thời gian theo dõi trung bình 48 tháng không có những sự khác biệt đáng kể trong bất cứ kết cuộc nào tứ nhóm chuyển trong Phân tích Điều trị Tiếp theo đối với đơn trị liệu (ví dụ như (dùng Tamoxifen trong 2 năm sau đó dùng] Femara trong 3 năm so với dùng tamoxifen trên 2 năm, DFS HR 0,89; Cl 97,5% 0,68, 1,15 và [dùng Femara trong 2 năm sau đó dùng] tamoxifen trong 3 năm so với dùng Femara trên 2 năm, DFS HR 0,93; Cl 97,5% 0,71, 1,22), VỚI thời gian theo dõi trung bình 67 tháng nói chung, không có những khác biệt đáng kể trong bất cứ kết cuộc nào từ lựa chọn ngẫu nhiên trong Phân tích Điều trị Tiếp theo (ví dụ như dùng tamoxifen trong 2 năm sau đó dùng Femara trong 3 năm so với dùng Femara trong 5 năm, DFS HR 1,10; C! 99% 0.86, 1,41; dùng Femara trong 2 năm sau đó dùng tamoxifen trong 3 năm so với dùng Femara trong 5 năm, DFS HR 0,96; Cl 99% 0,74, 1,24). Không có bằng chứng rằng sư phối hợp tiếp theo của Femara và tamoxifen lá tốt hơn khi chỉ dùng Femara trong 5 năm

Dữ liệu an toàn với thời gian điều trị trung bình 60 tháng

Trong nghiên cứu BiG-98 với thời gian điều trị trung binh 60 tháng, cặc tác dụng phụ quan sát thấy là phù hợp với hũ sơ an toàn cùa thuốc. Các phản ứng bất lợi nhât đinh cũng đã được xác định cho phân tích trước, dựa vào các đặc tinh dược lý vã hè sơ tác dụng phụ đã biết của hai thuốc.

Các phản ứng bất lợt đã được phân tích bất kể mối liên hệ của thuốc Hầu hết các phản ứng bất lợi được báo cáo (khoảng 75% bệnh nhân được báo cáo có 1 hoặc nhiều phản ứng bất lợi) là cấp độ 1 và cấp độ 2 theo tiêu chuẩn CTC phiên bản 2 0/CTCAE, phiên bản 3 0. Khi xem xét tất cả các cấp độ trong điều trị nghiên cứu, các biến cố được quan sát thấy ở Femara có tỷ lệ cao hơn so với tamoxifen: đối với tăng cholesterol máu (52% so với 29%), gãy xương (10,1% so với 7,1%), nhồi máu cơ tim (1% so với 0,5%), loãng xương (5,1% so với 2,7%) và đau khớp (25,2% so với 20,4%)

So với Femara,đã quan sát thấy nhóm tamoxifen có tỷ lệ cao hơn về nóng bừng (38% so với 33%), ra mồ hôi về đêm (17% so với 15%), chảy máu âm đạo (13% so với 5,2%), táo bón (2,9% so với 2,0%), các biến cố thuyên tắc mạch (3,6% so với 2,1%), tăng sinh/ung thư nội mạc tử cung (2,9% so với 0,3%), tăng sàn/ung thư nội mạc tử cung (1,8% so với 0,3).

Điều trị bổ trợ ung thư vú giai đoạn đầu, nghiên cứu D24Ũ7

Nghiên cứu 02407 là một nghiên cứu giai đoạn ill, biết rõ tên thuốc, ngẫu nhiên, đa trung tâm được thiết kể đẻ so sánh hiệu quá của điều trị bổ trợ letrozole với tamoxifen về mật độ chất khoáng trong xương (8MD), các chỉ số xương và các chỉ số lipid huyết thanh khi nhịn đói. Tổng số 262 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú nguyên phát nhay cảm với hormone đă được cẳt bò u đã được lựa chọn ngẫu nhiên đề dùng letrozole 2,5 mg/ngày trong 5 năm, hoặc tamoxifen 20 mg/ngày trong 2 năm sau đó dùng ietrozoie 2,5 mg/ngày trong 3 năm.

Mục đích ban đầu là so sánh tác dụng trên BMD cột sống thắt tưng (L2 – L4) của letrozole so vớí tamoxifen, được đánh giá theo tì lệ phần trăm thay đổi cùa BMD cột sòng thăt lưng tại thời điểm 2 năm so với mức ban đầu

Sau 24 tháng, BMD cột sống thắt lưng (12 – L4) có mức giảm trung bình 4,1% ở nhóm dùng tetrozole so với mức tăng trung bình 0,3% ờ nhóm dùng tamoxifen (sự khác biệt = 4,4%) Sau 2 năm, sự khác biệt trung bình nói chung về thay đổi BMD cột sống thắt lưng giữa letrozole và tamoxifen lả có ý nghĩa thống ké với ưu thế tamoxifen (P < 0,0001). Cãc dữ liệu hiện tại chỉ ra rằng không có bệnh nhân nào có 8MD bình thường lúc ban đầu (điểm T là -1,9) trở thành loãng xương sau 2 năm và chỉ có 1 bênh nhân bị thiếu xương lúc ban đầu (diễm T lá -1,9) tiến triển thành loãng xương trong thời gian điều trị (đánh giá bằng xét duyệt trung tâm).

Các kết quả của BMD xương hông toàn bộ là tương tự như của BMD cột sống thắt lựng Tuy nhiên những sự khác biệt ít được công bố hơn. Sau 2 năm, một sự khác biệt đáng kể với ưu thế tamoxifen đã được quan sát thấy ở nhóm an toàn BMD toàn bộ và tất cả các phân nhóm (p < 0,0001). Trong thời gian 2 năm, gãy xương đã được báo cáo ở 20 bệnh nhân (15%) trong nhóm dùng letrozole và 22 bệnh nhân (17%) trong nhóm dùng tamoxifen.

Trong nhóm dùng tamoxifen, nồng độ cholesterol toàn phần trung bình giảm 16% sau 6 tháng so với mức ban đầu; một mức giảm tương tự cũng quan sát thấy ở những lần thăm khám sau cho đến 24 tháng. Trong nhóm dùng letrozole, nồng độ cholesterol toàn phần trung bình là tương đối ổn định theo thời gian, không có sự tăng đáng kể trong mỗi lần thăm khám Các khác biệt giữa 2 nhóm là có ý nghĩa thống kê với ưu thế tamoxifen tại mỗi thời điểm (P < 0,0001).

Điều trị bổ trợ kéo dài

Trong một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên, đa trung tâm, có kiểm soát giả dược (CFEM345G MA-17) thực hiện trên hơn 5.100 bệnh nhân sau mãn kinh bị ung thư vú có thụ thể dương tính hoặc bệnh nhân bị ung thư vú không rõ u nguyên phát là những người vẫn duy trì tình trạng không mắc bệnh sau khi hoàn tất điều trị bổ trợ với tamoxifen (4,5 năm đến 6 năm) được chọn ngẫu nhiên vào nhóm dùng Femara hay nhóm dùng giả dược.

Phân tích chính đã được thực hiện với thời gian theo dõi trung bình khoảng 28 tháng (25% bệnh nhân được theo dõi đến 38 tháng) cho thấy Femara làm giảm đáng kể nguy cơ tái phát 42% so vỡi giá dược (tỷ số nguy cơ 0,58; P=Q,00003). Những phàn tích về độ nhạy đã xác nhận độ tin cậy của các dữ liệu Lợi ích có ý nghĩa thống kê về số bệnh nhân còn sống không mắc bệnh (DFS) với ưu thế letrozole đã được ghi nhận, bất kể tình trạng hạch – tỷ số nguy cơ 0,48 ở bệnh nhân không hạch, P=0,002, tỷ số nguy cơ 0,61, P=0,002 ờ bệnh nhân có hạch,.

ủy ban Kiểm tra Các dữ liệu và Độ an toàn độc lập đã khuyến cáo rằng phụ nữ, những người không còn mắc bệnh trong nhóm dùng giả dược được phép chuyển sang dùng Femara cho tới 5 năm khi mà nghiên cứu đã biết rõ tên thuốc vào năm 2003. Trong khi cập nhật, phân tích cuối cùng được tiến hành vào năm 2008, 1551 phụ nữ (60% số họ thích hợp để chuyển) đã chuyên từ già dược sang dùng Femara với thời gian trung binh 31 tháng sau khi hoàn thành trị liệu tamoxifen bổ trợ. Thời gian dùng Femara trung bình là 40 tháng sau khi chuyền.

Phân tích cuối cùng cập nhật được tiến hành với thời gian theo dõi trung bình là 62 tháng đã xác nhận sự giám đáng kể nguy cơ tái phát ung thư vú của Femara so với già dược, mặc dù 60% bệnh nhân thích hợp trong nhóm dùng giả dược chuyển sang dùng Femara sau khi nghiên cứu đã biết rõ tên thuốc. Trong nhóm dùng Femara, thời gian điều trị trung bình là 60 tháng: trong nhóm dùng giả dược, thời gian điều trị trung bình là 37 tháng. Tỷ lệ DFS sau 4 năm xác định theo đề cương được chỉ định là như nhau ở nhóm dùng Femara trong cả hai phân tích năm 2004 và 2008, xác nhận sự ổn định của dữ liệu và hiệu quả mạnh của điêu trị dài ngày bằng Femara. Trong nhóm dùng giả dược, sự tăng về tỷ lệ DFS sau 4 nặm trong phân tích cập nhật phàn ánh một cách rõ ràng ành hưởng cùa 60% bệnh nhân chuyển sang dùng Femara. Sự đổi thuốc này cũng giải thích nguyên nhân vì sao sự khác biệt về điều trị đã giảm rõ rệt

Trong phân tích nguyên thủy, đối với kết cuộc phụ là số còn sống nói chung(OS) tổng cộng có 113 trường hợp tử vong đã được báọ cáo (51 đối với Femara, 62 đối với giả dược). Nói chung, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kẻ giữa các điều trị về số còn sống nói chung (OS) (tỷ số nguy cơ 0,82, p = 0,29). Ờ bệnh nhân có hạch, Femara làm giãm đáng kể nguy cơ từ vong do mọi nguyên nhân khoảng 40% (tỷ số nguy cơ 0,61, p = 0,035) trong khi chưa ghi nhận sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê ở bệnh nhân không có hạch (tỷ số nguy cơ: 1,36, p = 0,^85), ở bệnh nhân có sử dụng hóa liệu pháp trước hoặc ở bệnh nhàn không sữ dụng hóa liệu pháp trước đó Xem bảng 4 và 5 tóm tắt các kết quả:

Bảng 4 Còn sống không mắc bệnh và còn sống nói chung (Nhóm ITT đã được sửa đổi)

Phân tích năm 2004 – thời gian theo dõi trung bình 28 tháng Letrozole Già dược HR(95%CI)2

N = 2582 N = 2586 Giá trị p

Phân tích cập nhật cuối cùng năm 2008′ – thời gian theo dõi trung bình 62 tháng Letrozole Giả dược HR (95% Cl)2

N = 2582 N = 2586 Già trị p

Còn sống không mắc

Các trường hợp

bệnh (xác định theo đề cương)3

92(3,6%) 155 0,58

(0,45, 0,76)

209 (8,1%)2860,75 (0,63, 0,89)
(6,0%)0,00003(11,1%)0,001
Tỷ lệ DFS sau 4 năm94,4%69,8%94,4%91,4%
Còn sống không mắc bệnh bao gồm cả chết do bất cứ nguyên nhân gi
Các trường hợp122

(4.7%)

193

(7,5%)

0,62 (0,49, 0.78) 0,00003344

(13,3%)

402

(15,5%)

0,89 (0,77, 1,03) 0,120
Tỷ lệ DFS sau 5 năm90,5%80,8%88,8%86,7%
Di căn xa
Các trường hợp57 (2,2%)93 (3,6%)0,61 (0,44, 0.84) 0,003142(5,5%)169 (6,5%)0,88

(0,70. 1,10)

0,246

Còn sống nói chung
Chết51 (2,0%)62 (2,4%)0,82

(0,56, 1,19)

0,291

236 (9,1%)232 (9.0%)1,13

(0,95, 1,36)

0,175

Chết42365

(9 1%)

1 70b (6 6%)0 78

(0.64, 0 96)

Ung thư vú haí bên
Xâm lấn (tông số)15 (0,6%)25 (1,0%)0,60

(0.31, 1,14)

0,117

33 (1.3%)51 (2,0%)0,647

(0.41, 1,00)

0,049

HR = Tỷ số nguy cơ; Cl = Khoảng tin cậy

  1. Khi nghiên cứu là biết rõ tên thuốc vào năm 2003, 1551 bệnh nhân trong nhóm đùng giả dược đươc chọn ngẫu nhiên (60% trong số họ thích hợp để đổi thuốc – có nghĩa là những người không mắc bệnh) chuyển sang dùng ietrazole trung bình 31 tháng sau khi được chọn ngẫu nhiên. Các phân tích được trình bày ở đây không tính đến việc đỗi thuốc theo nguyên tắc ITT
  2. Phân tầng theo tình trang thụ thể, tình trạng hạch và hóa trị liệu bổ trợ đã dùng trước đó
  3. Xác định theo đè cương các trường hợp còn sống không mắc bệnh: tái phát tại chỗ – vùng, di căn xa hoặc ung thư vú hai bên
  4. Phân tích thăm dò, thời gian theo dõi kiểm duyệt vào ngày đôi thuốc (nếu có xảy ra) trong nhóm dùng giả dược
  5. Thời gian theo dõi trung bình 62 tháng
  6. Thời gian theo dõi trung bình 37 tháng cho đến khi đổi thuốc (nếu có xảy ra)
  7. Tỷ lệ chênh lệch và Cl 95% của tỷ lệ chênh lệch

Bảng 5 Còn sống không mắc bệnh và còn sống nói chung dựa trên tình trạng

thụ thể, tình trạng hạch và hóa liệu pháp trước (Nhóm ITT đã được sửa đổi)

Phân tích năm 2004 – thời gian Phân tích năm 2008 – thời gian

theo dõi trung bình 28 tháng theo dõi trung bình 62 tháng1

HR (95% Cl)2 Giá trj p HR (95% Cl)2 Giã tộ Còn sống không mắc bệnh (xác định theo đề cương)

Tình trang thụ thể dương tinh0,57 (0,44, 0,75)0,000030,74 (0,62, 0,89)0,001
Tình trang hạch
Âm tính0,48 (0,30, 0,78)0,0020.67(0,49, 0,93)0,015
Dương tính0,61 (0,44. 0.83)0,0020,78 (0 62 0 97)0,027
Hóa liệu pháp
Không dùng0,58(0,40 0,84)0,0030.71 (0,54, 0,92)0.010
Đã dùng0,59 (0,41, 0 84)0,0030,79 (0 62 1,01)0,055

Còn sống nói chung

Tình trạng hạch

Phân tích năm 2004 – thờỉ gian Phân tích năm 2008 – thờị gian

theo dõi trung bình 28 tháng theo dõi trung bình 62 tháng1

HR (95% CI)JGiá trị pHR (95% Cl)2Giá trị p
Âm tính1,36 (0.68, 2,71)0,3851,34 (0,99, 1,81)0,058
Dương tính0 61 (0.38, 0,97)0 0350 96 (0.75, 1 21)0,710

HR = Tỷ sổ nguy Cơ Cl = Khoảng tin cậy

Bao gồm cả 60% các bệnh nhân thích hợp được đổi từ giả dược sang letrozole sau nghiên cứu biết rõ tên thuốc vào năm 2003

2 Từ mô hình hồi qui Cox

Trong phân tích cập nhật như được trình bày trong bảng 4, có gỉam đáng kể về sự chênh lệch trong ung thư vú hai bên xâm lấn ớởnhóm dùng Femara so với nhỏm dùng giả dược, mặc dù có 60% bệnh nhân trong nhóm dùng giả dược chuyển sang dùng Femara Không có sự khác biệt đáng kể về số còn sảng nói chung

Một phân tích thăm dò có kiểm duyệt vào ngáy đổi thuốc (nếu có xảy ra) cho thấy sự giảm đáng kể nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân ở nhóm dùng Femara so vời nhóm dùng giả dược (Bảng 4).

Không có sự khác biệt về hiệu quả hay tính an toàn giữa các bệnh nhân < 65 tuổi với bệnh nhân > 65 tuổi

Hồ sơ an toàn được cập nhật của Femara không cho thấy bất cứ biến cố bất lợi mới nào và phù hợp hoàn toàn với hồ sơ được báo cáo vào năm 2004

Các biến cố bất lợi sau đây bất kể do nguyên nhân nào đã được báo cáo thướng nhiều hơn đáng kể đối với Femara so với giả dược: nóng bừng (Femara 61% so với giả dược 51%), đau khớp/viêm khớp (41% so với 27%), đổ mồ hôi (35% so với 30%), tăng cholesterol máu (24% so với 15%) và đau cơ (1,8% so với 94%). Đa số những biến cố bẳt lợi này được ghi nhận trong năm đầu tiên điều trị. ở những bệnh nhân trong nhóm dùng giả dược chuyển sang dùng Femara, đã quan sát thấy mô hình phàn ứng bất lợi chung tương tự. Tỷ lệ bị loãng xương trong khi điều trị cao hơn đáng kể ở nhóm dùng Femara so với nhõm dùng giả dược (12.2% so với 6,4%). Tỷ lệ gãy xương lâm sàng trong khi điềụ trị cao hơn đáng kể ở nhóm dùng Femara so với nhóm dùng giả dược (10,4% so với 5,8%). Ở những bệnh nhân chuyển sang dùng Femara, loãng xương mới được chẩn đoán trong khi dùng Femara được báo cáo là 5,4% số bệnh nhân trong khi gãy xương đã được ghi nhận ở 7,7% số bệnh nhân. Không tính đến việc điều trị, bệnh nhân > 65 tuổi thường bị gãy xương và toãng xương nhiều hơn. Các kết quả mới nhất (thời gian theo dõi trung binh là 61 tháng) từ nghiên cứu phụ về xương cho thẩy là sau 2 năm, bệnh nhân dùng Femara có giảm trung bình 3,8% về mật độ khoảng ở xương (BMD) hông so với 2% ở nhóm dùng giả dược {P = 0,022) so với mức ban đầu. Không có sư khác biệt đáng kề giữa các nhóm điều trị đối với các thay đổi về mật độ khoáng ở xương cột sống thắt lưng vào bất kỳ thời gian náo Các kết quả mới nhất (thời gian theo dõi trung binh là 62 tháng) từ nghiên cứu phụ về lỉpid cho thắy với bất cứ phép đo về lipid nào cũng không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm dùng Femara và nhóm dùng giả dược vào bất kỳ thời gian nào Trong phân tích cập nhật, tỷ lệ các biến cố về tim mạch (bao gồm cả các biến cố về mạch não và tắc mạch) trong khi điều trị với Femara so với giả dược cho đến khi chuyển sang điều trị Femara là 9,8% so với 7,8%, một sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Trong giai đoạn kiểm tra và trước khi báo cáo cùa điều trị nghiên cứu, các biến cố được ghi nhận thường gặp nhật là: đột quỵ/cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (letrozole, 1,5% so với giả dược cho đến khi đổi thuốc, 0,8%); đau ngực mới hoặc nặng lên (letrozole, 1,4% so với giả dược cho đến khi đổi thuốc, 1,0%); nhồi máu cơ tim (letrozole, 1,0% so với giả dược cho đến khi đổi thuốc 0,7%); các trường hợp thuyên tắc huyết khối (letrozote, 0,9% so với giả dược cho đến khi đổi thuốc, 0,3%). Tần xuất cùa các biến cố thuyên tắc huyết khối cũng như đột quy/cơn thiêu máu cục bộ thoáng qụa được báo cáo lá cao hơn đáng kế ở nhóm dùng Femara so với nhóm dùng giã dược cho đến khi đổi thuốc. Biểu hiện của các kết quà về độ an toàn cần được xem như lả có một sự mât căn bằng về thời gian điều trị trung bình với letrozole (60 tháng) so với giả dược (37 tháng) do việc thay đổi từ giả dược sang Femara xảy ra ở khoảng 60% bệnh nhân.

Trị liệu đầu tay

Một thử nghiệm mù đôi được kiểm soát tốt đã được tiến hành, so sánh Femara 2,5 mg với tamoxifen như là một trị liệu đâu tay cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến triền khu trú hoặc di căn. Trong 907 phụ nữ, Femara trội hơn tamoxifen về thời gian tiến triển (kết cuộc chính), đáp ứng khách quan chung, thời gian đến lúc thất bại điều trị và lợi ích về lâm sàng. Các kết quả cụ thể được trình bày trong Bâng 6.

Bảng 6 Kết quả theo dõi trung bình trong 32 tháng

FemaraTamoxifenTrị số p
Thời gian đến lúc tiến triển (trung bình)9,4 tháng6,0 tháng< 0,0001
Đáp ứng khách quan chung về khối u (tỷ lệ)32%21%0,0002
Thời gian đáp ứng khách quan chung về khối u (trung bình)25 tháng23 tháng0,0578
Thời gian đến lúc thất bại điều trị (trung binh)9,1 tháng5,7 tháng< 0,0001
Lợi ích lâm sàng (tỷ lệ)50%38%0,0004

Cả thời gian dẫn đến tiến triển và tỷ lệ đáp ứng khách quan đều dài hơn/cao hơn đối với nhóm dùng Femara so với nhóm dùng tamoxifen bất kẻ tình trạng của thụ thể (Bảng 7).

Bàng 7 Tình trạng thụ thể

FemaraTamoxifenTrị số p
Tình trạng thụ thể:

ER và/hoặc PgR+:

Thời gian đến lúc tiến triển (trung binh) Đáp ứng khách quan chung về khối u (tỷ lệ)

9,4 tháng

33%

6,0 tháng 22%< 0,0001

0,0019

Chưa rõ/không có:

Thời gian đến lúc tiến triển (trung bình) Đáp ứng khách quan chung về khối u (tỷ lệ)

9,2 tháng

30%

6,0 tháng

20%

0,0402

0,0309

ER: thụ thể estrogen PgR: thụ thề progesterone

Hiệu quả theo vị trí bị bệnh rõ nhất được mô tả trong bảng 8:

Bàng 8 Hiệu quà theo vj trí bị bệnh rõ nhất

VỊ tri bệnh rõ nhấtFemara n=453Tamoxifen n=454Trị so p
Mô mềm:

Thời gian đến lúc tiến triển (trung bình) Đáp ứng khách quan chung về khối u (tỷ lệ)

n=113

12,1 tháng

50%

n=115

6,4 tháng 34%

0,0456

0,0171

Xương:

Thời gian đến lúc tiền triển (trung bình)

Đáp ứng khắch quan chung vè khối u (tỷ lê)

n=145

9,5 tháng 23%

n=131

6,2 tháng

15%

0,0262

0,0891

Nội tạng:

Thời gian tiến triển (trung bình)

Đáp ứng khách quan chung về khối u

n=195

8,3 tháng 28%

n=208

4,6 tháng 17%

0,0005

0 0095

Di căn gan:

Thời gian đến lúc tiến triển (trung bình)

Đáp ứng khách quan chung về khối u

Tỷ lệ lợi ích toàn thể về lâm sáng

Thời gian còn sống nói chung (trung bình) (kể cả điều trị chéo)

n=60

3,8 tháng 10%

28%

19 tháng

n=55

3,0 tháng 11%

16%

12 tháng

0,0232

0,8735

0,1292

0,0727

Chú ý: Nhóm “Di căn gan” là một nhóm phụ gồm những bệnh nhân có vị trí bị bệnh rõ nhất ở nội tạng.

Nghiên cứu cho phép bệnh nhân điều trị chéo dựa trên tiến triển đối với điều trị khác hoặc ngừng điều trị. Khoảng 50% bệnh nhân được chuyển qua nhóm điều trị đối nghịch và sự điều trị chéo đã hầu như hoàn tất sau 36 tháng. Thời gian điều trị chéo trung bình là 17 tháng (từ Femara sang tamoxifen) và 13 tháng (từ tamoxifen sang Femara). Trị liệu bằng Femara trong trị liệu đầu tay cho các bệnh nhân bị ung thư vú tiến triển có liên quan với lợi ích sống sót sớm so với tamoxifen. Thời gian sống trung bình là 34 tháng đối với Femara và 30 tháng đối với tamoxifen. Có một số lớn hơn đáng kể về bệnh nhân còn sống khi dùng Femara so với tamoxifen sau 24 tháng nghiên cứu (phép thử log rank lặp lại), xem Bảng 9.

Bàng 9 số còn sống – Bệnh nhân còn sống, đã chết, điều trị chéo.

Femara (n=458)Tamoxifen(n=458)Logrank
ThángCòn sóngChếtĐiều trị chéoCòn sốngChếtĐiều trị chéoTrị số p
với tamoxifenvới letrozole
6426315140652740,0167
12378791293431141450,0038
183411151852971591790 0010
242861662082631931980 0246
302412092252272272170 0826
361562432331692512240 2237
4270267238852662260 4820
4824277272722280,6413
5462776276*0,5303
* Trị số p theo phép thử log rank toàn bộ

Hiệu quả điều trị được phân tích chi tiết theo “điều trị bổ trợ thuốc kháng estrogen trước” trong bảng 10.

Trị liệu hormone trướcKhông trị liệu hormone trước
Kết luậnFemaraTamoxifenTrị sốFemaraTamoxifenTrị số
n=84n=83pn=369n=371p
Thời gian đến lúc tiền triển (trung bình)8,9 tháng5 9 tháng0,00339,5 tháng6,0 tháng0,0003
Đáp ứng khách quan chung về khối26%8%0,003833%24%0,0039
Lơi ích lâm sàng46%31%0,046451%40%0,0026
n=86n=83n=372n=375
Thời gian cón sống nói chung (trung binh) kể cà điều trị chéo28 tháng30 tháng0,655834 tháng30 tháng0,3756
n=45n=43n=174n=186
Thời gian còn sổng với trị liệu đầu tay (bệnh nhân không điều trị chéo) (trung bình)33 tháng18 tháng33 tháng19 tháng

Bảng 10

Kết quả theo điều trị bồ trợ kháng estrogen trước

Ở những bệnh nhân không điều trị chéo với nhóm điều trị đối nghịch, thời gian sống trung binh là 35 tháng đối với Femara (n=219, khoảng tin cậy 95% từ 29 đến 43 tháng) so với 20 tháng khi dùng tamoxifen (n=229, khoảng tin cậy 95% từ 16 – 26 tháng).

Tổng thời gian điều trị nội tiết (thời gian dùng hóa liệu pháp) lâu hơn đáng kể đối với Femara (trung bình là 16,3 tháng, khoảng tin cậy 95% từ 15 đến 18 tháng) so với tamoxifen (trung bình 9,3 tháng, khoảng tin cậy 95% từ 8 đến 12 tháng) (logrank P=ũ,0047).

Chỉ số thực hiện Karnofsky (KPS) kém đi 20 điềm hoặc hơn xảy ra ít hơn đáng kể ở bệnh nhân dùng trị liệu đầu tay bằng letrozole (19%) so vời khi dùng tamoxifen (25%) (tỷ số chênh lệch, P=0,0208)

Trị liệu thứ hai

2 thử nghiêm lâm sàng được kiểm soát tốt đã được tiến hành, so sánh các liều letrozole (Femara 0,5 mg và 2,5 mg) với megestrol acetate và với aminoglutethimide tương ứng, ở phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến triền đã điều trị trước đó với thuốc kháng estrogen.

Đã ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê thiên về Femara 2,5 mg so với megestrol acetate về tỷ lệ đáp ứng khách quan chung về khối u (24% so với 16%, P=0,04), và về thời gian đến thât bai điêu trị (P=0,04). Thời gian đến tiện triển không khác biệt đáng kể giữa Femara 2,5 mg và megestrol acetate (P=0,07) Sô còn sống nói chung không khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm điều trị (P=ũ,2).

Trong nghiên cứu thứ hai, Femara 2,5 mg trội hơn về mặt thống kê so với aminoglutethimide về thời gian đến tiến triển (P=0,008), thời gian đến thất bại điều trị (P=0,003) vá số côn sống nói chung (P=0,002). Tỷ lệ đáp ứng không khác biệt đáng kể giữa Femara 2,5 mg và aminoglutethimide (P=0,06).

Điều trị tiền phẫu thuật

Một thử nghiệm mù đôi đã được tiến hành trên 337 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào nhóm dùng Femara trong 4 tháng hoặc nhóm dùng tamoxifen trong 4 tháng. Có 55% đáp ứng khách quan ờ bệnh nhân được điều trị bằng Femara so với 36% bệnh nhân được điều trị bằng tamoxifen (P < 0,001) dựa trên đánh giá lãm sàng Phát hiện này đã được xác định chắc chắn bằng siêu âm (P=0,042) và chụp X-quang vú (P < 0,001) cho đánh giá dè dặt nhất về đáp ứng Đáp ứng này được phàn ánh ờ số lượng cao hơn có ý nghĩa thống kê của nhóm bệnh nhân dùng Femara là những người thích hợp và đã trải qua điều trị bảo tồn vú (45% bệnh nhân ở nhóm dùng Femara so với 35% bệnh nhân ở nhóm dùng tamoxifen P=0,022).

Đặc tính dược động học

Hấp thu

Letrozole được hấp thu nhanh chóng và hoán toàn từ đường tiêu hóa (sinh khả dụng tuyệt đối trung bình: 99,9%). Thức ăn làm giảm nhẹ tốc độ hấp thu (thời gian đạt được nồng độ cao nhất trong huyêt tương (Tmax trung bình: 1 giờ lúc đỏi so với 2 giờ sau khi ăn; và nồng độ cao nhất trong huyết tương trung binh: 129 ± 20,3 nmol/L lúc đói so với 98,7 ± 18,6 nmol/L sau khi ăn), nhưng mực độ hấp thu (diện tích dưới đường cong nồng độ – AUC) không bị thay đổi Tác dụng thứ yếu về tốc độ hấp thu không được xem là có ý nghĩa lâm sàng, vì vậy letrozole có thể dùng mà không cần quan tâm đến thời gian các bữa ăn

Phân bố

Letrozole gắn với protein huyết tương khoảng 60%, chủ yếu là với albumin (55%). Nồng độ letrozole trong hồng cầu khoảng 80% so với nồng độ trong huyết tương. Sau khi dùng 2,5 mg letrozole có gắn phóng xạ 14c, khoảng 82% phóng xạ trong huyết tương là dạng hợp chất không đổi Vì vậy phơi nhiễm toàn thân đối với các chất chuyển hóa là thấp. Letrozole được phân bố nhanh và mạnh vào các mô. Thể tích phân bố biểu kiến ở trạng thái ổn định khoảng 1,87 + 0,47 L/kg.

Chuyển hóa và thải trừ

Độ thanh thải về chuyển hóa đối với chất chuyền hóa carbinol không có hoạt tính dược lý là đường đào thải chính cùa letrozole (CLm= 2,1 L/giờ) nhưng tương đối chậm khi so với lưu lượng máu qua gan (khoảng 90 L/giờ). Các isoenzyme 3A4 và 2A6 cytochrome P450 được biết là có khả năng biến đổi letrozole thành chất chuyển hóa này. Sự hình thành các chất chuyển hóa nhỏ không nhận dạng được và sự bài tiết trực tiếp qua thận và phân chỉ đóng vai trò nhỏ trong toàn bộ sự đào thải letrozole. Trong vòng 2 tuần sau khi dùng 2,5 mg letrozole có gắn phóng xạ 14c cho những phụ nữ tinh nguyện sau mãn kinh khỏe mạnh, 88,2 ± 7,6% phóng xạ được phát hiện trong nước tiểu vá 3,8 ± 0,9% trong phân. ít nhất 75% phóng xạ được phát hiện trong nước tiểu đến 216 giờ (84,7 ±7,8% liều dùng) được cho là do glucuronide của chất chuyển hóa carbinol, khoảng 9% là do hai chất chuyển hóa không nhận dạng được và 6% do letrozole dạng không đổi.

Trong microsome người với hoạt tính isozyme CYP đặc hiệu, CYP3A4 chuyển hóa letrozole thành chất chuyển hóa carbinol, CYP2A6 chuyền hóa letrozole thành cà chất chuyển hóa và dẫn xuất ketone của chất này. Tại microsome gan, letrozole ức chế mạnh CYP2A6 nhưng ức chế CYP2C19 chỉ ở mức độ trung bình

Thời gian bán thải biểu kiến cuối trong huyết tương khoảng 2 ngày. Sau khi dùng 2,5 mg/ngày, nồng độ ờ trạng thái ổn định đạt được trong vòng 2-6 tuần. Nồng độ trong huyết tương ở trạng thái ổn định cao hơn khoảng 7 lần so với nồng độ đo được sau khi dùng 1 liều đơn 2,5 mg, trong khi nồng độ này cao hơn 1,5-2 lần so với các trị số ờ trạng thái ổn định được dự đoán từ các nồng độ đo được sau khi dùng 1 liều đơn, cho thấy sự không tuyến tính nhẹ về dược động học của letrozole khi dùng liều 2,5 mg/ngày Vì các nồng độ ở trạng thái ổn định được duy trì theo thời gian, có thể kết luận là không xảy ra sự tích lũy letrozole liên tục.

Tuổi tác không gây ảnh hưởng đến dược động học của letrozole.

Nhóm bệnh nhân đặc biệt

Trong một nghiên cứu gồm những người tình nguyện có các mức độ chức năng thận thay đổi (độ thanh thải creatinine 24 giờ từ 9-116 mL/phút), không thấy có ảnh hưởng trên dược động học của letrozole sau khi dùng một liều đơn 2,5 mg. Trong một nghiên cứu tương tự bao gồm những người có các mức độ chức năng gan thay đổi, trị số diện tích dưới đường cong nồng độ (AUC) trung binh của những người tình nguyên có mức suy gan trung binh (chỉ số Child-Pugh loại B) cao hơn 37% so với người bình thường, nhưng vẫn còn trong mức đã gặp ở người không bị suy gan. Trong một nghiên cứu so sánh dược động học của letrozole sau khi uống 1 liều đơn trên 8 người bị xơ gan và suy gan nặng (chỉ số Child-Pugh loại C) với những người tình nguyện khỏe mạnh (n=8), AUC tăng 95% và t1/2 tăng 187% Vì vậy những bệnh nhân ung thư vú bị suy gan nặng có thể phải tiếp xúc vời nồng độ letrozole cao hơn so với bệnh nhân không bị rối loạn chức năng gan nặng Tuy nhiên, vì không thấy tăng độc tinh ờ bệnh nhân dùng liều 5 hoặc 10 mg/ngày nên việc giảm liều ở bệnh nhân bị suy gan nặng dường như không xác đáng, mặc dù những bệnh nhân này cần được giám sát chặt chẽ.

Hơn nữa, ở 2 nghiên cứu được kiểm soát tốt bao gồm 359 bệnh nhân bị ung thư vú tiến triển, không thấy có ành hường cùa suy thận (độ thanh thải creatinine: 20-50 mL/phút) hoặc rối loạn chức năng gan do nồng độ của letrozole

CÁC Dữ LIỆU AN TOÀN TIÊN LÂM SÀNG

Trong nhiều nghiên cứu về độ an toàn tiền lâm sàng khác nhau được thực hiện trên các loài động vật chuẩn, không có biểu hiện độc tính toàn thân hoặc ở cơ quan đích.

Letrozole cho thấy độc tính cấp mức độ thấp ở các loài gặm nhấm khi dùng đến 2.000 mg/kg. ở chó, letrozole gây ra các dấu hiệu nhiễm độc trung bình với liều 100 mg/kg

Trong các nghiên cứu vè độc tính liều lặp lại ở chuột lớn và chó đến 12 tháng, các phát hiện chinh quan sát được có thể quy cho là do tác dụng dược lý của hợp chất này. Nồng độ không gây tác dụng là 0,3 mg/kg ở cả hai loài.

Các tác dụng dược lý của letrozole là kết quả của nghiên cứu các dấu hiệu trên xương, nội tiết, thần kinh và sinh sàn ờ chuột con. Sự phát triển và trưởng thành xương bị giảm từ liều thấp nhất (0,003 mg/kg/ngày) ở chuột đực và tăng từ liều thấp nhất (0,003 mg/kg/ngày) ở chuột cái. Mật độ khoáng trong xương (BMD) cũng giảm ở liều này với chuột cái. Trong cùng một nghiên cứu, khà năng thụ tinh giảm ỡ mọi liều cùng với sự phì đại của tuyến yên, những thay đổi của tinh hoàn bao gồm cà thoái biến biểu mô ống dẫn tinh và teo bộ máy sinh sân của chuột cái. Ngoài những thay đổi về kích cỡ xương ờ chuột cái và thay đổi về hình thái học của tinh hoàn, các ảnh hưởng đều được phục hồi ít nhất cũng một phần.

Các nghiên cứu in vitro và in vivo về khả năng gây đột biến gen cùa letrozole không phát hiện bất kỳ độc tính gen nào

Trong một nghiên cứu 104 tuần ở chuột lớn về tính gây ung thư, không ghi nhận khối u liên quan đến điều trị ờ chuột lớn đực. ở chuột lớn cái, đã ghi nhận giảm tỷ lệ khối u vú lành tính và ác tính ở tất cả các liều letrozole.

Dùng letrozole đường uống cho chuột lớn Sprague-Dawley có thai dẫn đến tăng nhẹ tỷ lệ dị dạng thai (đầu mái vòm và thân đốt sống dính liền) trong số động vật được cho dùng thuốc. Các dị dạng tương tự không thấy ờ thỏ trắng New Zealand.Tuy nhiên, không thể biết có phải đây là một hậu quả gián tiếp do các đặc tính dược lý (ức chế sinh tổng hợp estrogen) hay là tác dụng trực tiếp của chính letrozole (xem khuyến cáo trong phần CHỒNG CHỈ ĐỊNH vá PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ CHO CON BÚ).

Các quan sát tiền lâm sàng bị giới hạn đối với những trường hợp có kết hợp với tác dụng dược lý đã được biết, lá sự quan tâm duy nhát về tinh an toàn cho việc sử dụng ờ người từ các nghiên cứu ở động vật.

Các dấu hiệu lưu ý và khuyến cáo khi dùng Thuốc Femara 2.5mg

  • Không nên dùng Thuốc Femara 2.5mg quá hạn (có ghi rõ trên nhãn) hay khi có sự nghi ngờ về chất lượng thuốc.
  • Thuốc này chỉ dùng theo đơn của Bác sĩ.
  • Nếu cần thêm thông tin, hãy hỏi ý kiến Bác sĩ hoặc dược sĩ.
  • Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.
  • Để thuốc xa tầm tay trẻ em.

Mô tả Thuốc Femara 2.5mg

Thuốc Femara 2.5mg được bào chế dưới dạng viên nén bao phim, viên nén bao phim màu vàng sẫm, hình tròn, 2 mặt hơi lồi, có cạnh xiên. Bao bên ngoài là hộp giấy cartone màu xanh + trắng. Tên sản phẩm màu xanh + hồng, phía trên góc tay phải in logo NOVATIS. 2 bên in thành phần, cách bảo quản, công ty sản xuất sản phẩm.

Lý do nên mua Thuốc Femara 2.5mg tại nhà thuốc

  1. Cam kết sản chính hãng.
  2. Ngày sản xuất mới, hàng cam kết chất lượng.
  3. Hoàn tiền 100% nếu hàng kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái.
  4. Giao hàng tận nơi, nhận hàng rồi mới thanh toán (COD).
  5. Được dược sỹ tư vấn miễn phí trong quá trình sử dụng để đạt hiệu quả tốt nhất.
  6. Đổi trả hàng trong 10 ngày nếu giao hàng không đúng như thông tin sản phẩm.
  7. Sản phẩm đều có giấy chứng nhận, hóa đơn đỏ.

Hướng dẫn bảo quản

Nên bảo quản ở những nơi khô ráo, thoáng mát, nhiệt độ từ dưới 30 độ C và để xa tầm tay của trẻ em.

Thời hạn sử dụng Thuốc Femara 2.5mg

60 tháng kể từ ngày sản xuất. Ngày sản xuất và hạn sử dụng được in trên bao bì sản phẩm.

Để đảm bảo sức khỏe thì không nên sử dụng sản phẩm đã quá hạn.

Quy cách đóng gói sản phẩm

Hộp 3 vỉ x 10 viên, kèm toa hướng dẫn sử dụng.

Dạng bào chế: Viên nén bao phim.

Thuốc Femara 2.5mg mua ở đâu

Thuốc Femara 2.5mg có thể được bán tại các nhà thuốc, bệnh viện trên toàn quốc. Hiện sản phẩm cũng đang được bán chính hãng tại hệ thống Nhà Thuốc Thân Thiện.

Đơn vị chia sẻ thông tin

  • Nhà thuốc THÂN THIỆN
  • Hotline: 0916893886
  • Website: nhathuocthanthien.com.vn
  • Địa chỉ CS1: Số 10 ngõ 68/39 đường Cầu Giấy, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
  • Địa chỉ CS2: Số 30, đường Vạn Xuân, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội

Thuốc Femara 2.5mg giá bao nhiêu

Thuốc Femara 2.5mg có giá bán trên thị trường hiện nay là: 0.000đ/ hộp 30 viên. Mức giá trên có thể bao gồm cả cước phí vận chuyển tới tận tay người tiêu dùng.

Tùy theo từng đơn vị phân phối mà giá bán có thể sẽ bị chênh lệch nhau, tuy nhiên mức chênh lệch cũng không đáng kể.

Giấy phép xác nhận từ Bộ Y Tế

Số đăng ký lưu hành: VN-18040-14

Đơn vị sản xuất và thương mại

Novartis Pharma Stein AG

Địa chỉ: Schaffhauserstrasse, 4332 Stein Thụy Sĩ

Xuất xứ

Thụy Sĩ


Bài viết này có hữu ích với bạn không?

Có hữu ích Không hữu ích

Nếu có câu hỏi nào thêm, bạn có thể để lại thông tin để nhận tư vấn của chúng tôi.


Đánh giá Femara 2.5mg điều trị bổ trợ cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú
Chưa có
đánh giá nào
5 0% | 0 đánh giá
4 0% | 0 đánh giá
3 0% | 0 đánh giá
2 0% | 0 đánh giá
1 0% | 0 đánh giá
Đánh giá Femara 2.5mg điều trị bổ trợ cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú
Gửi ảnh thực tế
0 ký tự (Tối thiểu 10)
    +

    Chưa có đánh giá nào.

    Hỏi đáp

    Không có bình luận nào

    Sản phẩm cùng thương hiệu

    Thân thiện cam kết
    Thân thiện cam kết
    Miễn phí vận chuyển
    Miễn phí vận chuyển
    Giao nhanh 2 giờ
    Giao nhanh 2 giờ
    Đổi trả 30 ngày
    Đổi trả 30 ngày
    Sản phẩm này chỉ được sử dụng khi có chỉ định của Bác sĩ. Thông tin mô tả tại đây chỉ có tính chất tham khảo. Vui lòng xác nhận bạn là Dược sĩ, Bác sĩ & nhân viên y tế có nhu cầu tìm hiểu về sản phẩm.

    Không hiển thị thông báo này lần sau.

    Mua theo đơn 0916 893 886 Messenger Chat Zalo