12.075.000₫
Xuất xứ | Ailen |
Quy cách | Hộp 5 vỉ x 10 viên |
Thương hiệu | Astellas |
Chuyên mục | Chức năng Gan |
Số đăng ký | VN-16291-13 |
Thành phần | Tacrolimus |
Advagraf 5mg là thuốc kê đơn phòng ngừa thải ghép gan hay thận ở người nhận trưởng thành. Điều trị những trường hợp thải ghép dị sinh kháng với các loại thuốc ức chế miễn dịch khác ở người trưởng thành.
Nội dung chính
ADVAGRAF 5 mg viên nang cứng phóng thích kéo dài. Viên nang gelatin được in màu đỏ chữ “5 mg” trên phần nắp màu đỏ xám và “ logo 687” trên phần thân màu cam, chứa thuốc bột màu trắng.
Advagraf 5mg được dùng trong phòng ngừa thải ghép gan hay thận ở người nhận trưởng thành. Điều trị những trường hợp thải ghép dị sinh kháng với các loại thuốc ức chế miễn dịch khác ở người trưởng thành.
Lưu ý: Sản phẩm là thuốc kê đơn, chỉ bán khi có chỉ định của bác sĩ, không bán online, mọi thông tin trên Website chỉ mang tính chất tham khảo, không được tự ý áp dụng.
Không có yêu câu đặc biệt.
Thuốc này chỉ dùng theo sự kê đơn của thầy thuốc.
Không dùng thuốc vượt quá hạn dùng ghỉ trên bao bì đóng gói
Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.
Nếu cân thêm thông tin, xin hỏi ý kiến bác sĩ.
Thận và tụy là những cơ quan chính bị tác động trong các nghiên cứu độc tính được thực hiện trên chuột và khi đầu chó. Ở chuột, tacrolimus gây tác động độc tính trên hệ thần kinh và mắt, Tác động độc tính trên tim có thể hồi phục được quan sát thấy ở thỏ sau khi sử dụng tacrolimus đường tĩnh mạch.
Độc tính phôi thai được thấy ở chuột và thỏ và được giới hạn đến các liều vì có thể gây độc tính đáng kê trên động vật mang thai. Ở chuột, chức năng sinh sản ở chuột cái gồm cả khả năng sinh đẻ bị rối loạn tại liêu độc và con sinh ra bị giảm cân, ảnh hưởng tới khả năng phát triển và lớn lên,
Tác dụng có hại của tacrolimus trên khả năng sinh sản của chuột đực được thể hiện qua giảm số lượng và khả năng đi chuyên của tinh trùng.
Mỗi viên nang cứng Advagraf 5mg phóng thích kéo dài chứa: 5 mg tacrolimus (monohydrate).
Viên nang chứa
Vỏ viên nang
Mực in trên thuốc (Opacode S-1-15083)
Tacrolimus tương kị với PVC (polyvinylchloride). Ống, xi lanh và các dụng cụ khác dùng để chuẩn bị huyền dịch của viên nang Advagraf không được chứa PVC.
Quá mẫn cảm đổi với tacrolimus, hoặc với bất kì thành phần tá được nào của thuốc (xem Danh sách thành phần tá được)
Quá mẫn cảm với các macrolide khác.
Advagraf là dạng bảo chế uống ngày một lần của tacrolimus. Điều trị Advagraf đòi hỏi phải có sự giám sát cân thận bởi các nhân viên được trang bị kiến thức và dụng cụ thích hợp. Loại thuốc này chỉ được dùng khi bác sỹ kê toa, và những thay đổi trong điều trị ức chế miễn dịch chỉ được thực hiện bởi các bác sỹ có kinh nghiệm trong điều trị ức chế miễn dịch và xử trí những bệnh nhân ghép tạng.
Sự ngừng sử dụng không thận trọng, không có chủ ý hoặc không được giám sát của các dạng bào chế thuốc tacrolimus phóng thích nhanh hay kéo dài là không an toàn.Điều này có thể dẫn đến sự thải ghép hay tăng tần suất của các tác dụng phụ, bao gdm tre ché mién dich khéng đủ hoặc quá mức, do những khác biệt có ý nghĩa lâm sàng ở các nông độ thuốc tacrolimus. Bệnh nhân nên được duy trì với một dạng bào chế của tacrolimus với chế độ liều hàng ngày tương ứng: những thay đổi về dạng bào chế hay phác đồ chỉ được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của một chuyên gia thải ghép (xem phần Lưu ý quan trọng và thận trọng khi sử dụng và phần Các tác dụng ngoại ý). Sau khi chuyên qua dạng bào chế khác, theo dõi điều trị thuốc phải được thực hiện và điều chỉnh liều để đảm bảo duy trì nồng độ toàn thân của tacrolimus.
Liều dùng khuyến cáo ban đầu thê hiện bên dưới chỉ nên xem như hướng dẫn. Advagraf được cho dùng thường quy kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác trong giai đoạn đầu sau phẫu thuật. Liều dùng có thể thay đổi phụ thuộc vào phác đồ ức chế miễn dịch được chọn. Liều Advagraf nên chủ yếu dựa vào đánh giá lâm sàng của sự thải ghép và khả năng dung nạp của mỗi cá nhân bệnh nhân dựa trên theo dõi nồng độ thuốc trong máu (xem “Theo dõi thuốc điều trị” bên đưới). Nếu dấu hiệu lâm sàng của thải ghép trở nên rõ ràng, thì phải xem xét việc thay đôi phác đô ức chê miền dịch.
Ở những bệnh nhân mới ghép gan và thận, AUC0-24 của tacrolimus của Advagraf trong Ngày 1 thì thấp hơn lần lượt là 30% và 50% so với viên nang phóng thích lập tức (Prograf) ở cùng liều. Vào ngày 4, đáp ứng hệ thống được đo lường bởi nồng độ đáy thì tương tự đối với cả những bệnh nhân ghép gan và thận với cả hai dạng bào chế. Theo dõi cần thận và thường xuyên nồng độ đáy của tacrolimus được khuyến cáo trong hai tuần đầu tiên sau ghép với Advagraf để đảm bảo nồng độ thuốc đầy đủ trong khoảng thời gian ngay sau phép tạng. Vì tacrolimus là một chất có độ thanh thải thấp, điều chỉnh chế độ liều Advagraf có thể cần vài ngày để đạt được giai đoạnổn định.
Để ức chế sự thải ghép, ức chế miễn dịch phải được duy trì; vì vậy, không có giới hạn về thời gian đôi với phác đô thuôc uông có thê được sử dụng.
Điều trị Advagraf nên khởi đầu với liều 0,20- 0,30 mg/kg/ngày, dùng ngày một lần vào buổi sáng. Dùng thuốc nên bắt đầu trong vòng 24 giờ sau khi hoàn tất phẫu thuật. Liều Advagraf thường được giảm trong thời gian sau ghép. Trong một số ca có thể ngưng điều trị thuốc ức chế miễn dịch đi kèm, chỉ sử dụng Advagraf đơn trị liệu. Những thay đôi về tinh trạng của bệnh nhân sau ghép có thể thay đổi tính chất dược lý của tacrolimus và có thể đòi hỏi chỉnh liều thêm nữa.
Điều trị Advagraf nên khởi đầu với liều 0,10 – 0,20 mg/kg/ngày, dùng ngày một lần vào buổi sáng. Dùng thuốc nên bắt đầu khoảng 12-18 giờ sau khi hoàn tất phẫu thuật. Liều Advagraf thường được giảm trong thời gian sau ghép. Trong một số ca có thể ngưng điều trị thuốc ức chế miễn dịch đi kèm, chỉ sử dụng Advagraf đơn trị liệu. Những thay đổi về tình trạng của bệnh nhân sau ghép có thể thay đổi tính chất được lý của tacrolimus và có thê đòi hỏi chỉnh liều thêm nữa.
Những bệnh nhân ghép tạng dị sinh đang được duy trì liều ngày 2 lần với viên nang Prograf cần chuyển qua ngày một lần Advagraf nên được chuyền theo tỉ lệ 1: 1 (mg:mg) trên tổng liều hàng ngày. Hung, – nên được uống vào buổi sáng. Ở những bệnhnhân ổnô Wjnh được chuyển từ viên nang Prograf (ngày hai lần) sang Advagraf (ngày một lần) theo tỉ lê`:1 (mg:mg) theo tong liều hằng ngày, nồng độ toàn thân đối với tacrolimus (AUCO-240dvới Advagraf thì thấp hơn khoảng 10% so với Prograf. Mỗi tương quan giữa các nồng để đấy của tacrolimus (C24) và nông độ toàn thân (AUCO-24) đối với Advagraf thì tương tự như nhau. Khi chuyển từ viên nang Prograf sang Advagraf, nồng độ đáy nên được đo trước khi chuyên qua và trong vòng hai tuần sau khi chuyển thuốc. Sau khi chuyển thuốc, nồng độ đáy tacrolimus phải được theo dõi và chỉnh liều nêu cần thiết để duy trì nồng độ toàn thân tương tự.
Phải thận trọng khi chuyển bệnh nhân từ liệu pháp điều trị chủ yếu dựa trên ciclosporin sang chủ yếu dựa trên tacrolimus (xem phần Lưu ý đặc biệt và thận trọng khi sử dụng và phần Tương tác với các thuốc khác và các hình thức tương tác khác). Sử dụng kết hợp giữa ciclosporin va tacrolimus không được khuyến cáo. Điều trị với Advagraf chỉ nên bắt đầu sau khi xem xét nồng độ ciclosporin máu và tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Nên hoãn dùng thuốc nếu có mức nồng độ ciclosporin trong máu tăng. Trong thực hành, liệu pháp điều trị chủ yếu dựa trên tacrolimus đượckhởi đầu 12-24 giờ sau khi ngưng ciclosporin. Theo đối nồng độ ciclosporin máu nên được tiếp tục sau khi chuyển thuốc vì độ thanh thải của ciclosporin cé thé bi ảnh hưởng.
Tang liéu tacrolimus, bd sung trị liệu corticosteroid, và đưa vào một liệu trình ngăn của kháng thể đơn/đa dòng, tất cả đã từng được dùng để xử trí những giai đoạn thải ghép. Nếu có dầu hiệu độc tính như các phản ứng thuốc nặng đã được ghỉ nhận (xem phần Các tác dụng ngoại ý), liêu Advagraf có thê cân phải giảm.
Đối với việc chuyển từ các thuốc ức chế miễn dịch khác sang Advagraf ngày một lần, việc điều trị nên bắt đầu với liều uống khởi đầu như liều được khuyến cáo tương ứng cho trường hợp phòng ngừa thải ghép ở ghép gan hoặc thận.
Ở những bệnh nhân trưởng thành được chuyên sang Advagraf, liêu uông ban đầu 0,15 mg/kg/ngày nên được dùng ngày một lân vào buôi sáng
Mặc dù không có kinh nghiệm lâm sang voi Advagrafởnhững bệnh nhân đượcghépphổi, tụy hay ruột, Prograf đã được sử dụng trên những bệnh nhân được ghép phổi với liều khởi đầu bằng đường uống là 0,10 – 0,15 mg/kg/ngày, trênnhững bệnh nhân ghép tụy liều khởi đầu đường uống là 0,2 mg/kg/ngày và trong ghép ruột với liều khởi đầu là 0,3 mg/kg/ngày.
Suy gan: Giảm liều có thê cân thiết trên những bệnh nhân có suy gan nặng đề duy tri nông độ đáy của tacrolimus trong khoảng đích được khuyên cáo.
Suy thân: Vì các đặc tính dược lý học của tacrolimus không bị ảnh hưởng ‘pailSite nang than (xem phần Các đặc tính Dược lý học), không cần thiết phải điều chỉnh liều. Tuy nhiên, do tacrolimus có khả năng độc thận nên cần theo dối cân thận chức năng thận (bao gồm nồng độ creatinine huyết thanh đo làm nhiều lần, tính toán độ thanh thai creatinine và theo dõi lượng nước tiểu).
Chủng tộc: Khi so sánh với người da trắng, bệnh nhân da đen cân liều tacrolimus cao hơn dé đạt được nông độ đáy tương đương.
Giới tính: Không có bằng chứng cho thấy rằng những bệnh nhân nam và nữ cần những liều khác nhau đề đạt được nông độ đáy tương đương.
Bệnh nhân lớn tuổi: Hiện không có bằng chứng cho thấy rằng cần chỉnh liều thuốc trên những bệnh nhân lớn tuôi.
Bệnh nhân trẻ em: Thông tin về an toàn, hiệu quả của Advagrafở trẻem dưới 18 tuổi chưa được xác lập. Dữ liệu hiện có giới hạn nên không có khuyên cáo về chê độ liễu cho đỗi tượng này.
Liều dùng nên chủ yếu dựa trên đánh giá lâm sảng sự thải ghép và khả năng dung nap trên từng bệnh nhân riêng biệt và được hỗ trợ bởi theo doi nông độ đáy của tacrolimus trong máu toàn phần.
Để hỗ trợ chọn liều thuốc tối ưu, nhiều xét nghiệm miễn dịch hiện có được dùng để xác định nồng độ tacrolimus trong máu toàn phần. So sánh các néng độ từ những tài liệu đã được xuất bản với những nồng độ đơn lẻ trong thực hành lâm sàng phải được đánh giá với sự cần trọng và am hiểu của các phương pháp xét nghiệm miễn dịch đượcáp dụng. Trong thực hành lâm sang hién nay, nông độ trong máu toàn phần được theo dai bằng các phương pháp xét nghiệm miễn dịch. Mối tương quan giữa nồng độ đáy của tacrolimus (C24) và nông độ toàn thân (AUC 0-24) là trơng đương nhau giữa hai thuốc Advagraf và Prograf.
Nồng độ đáy của tacrolimus phải được theo dõi trong suốt thời gian sau ghép tạng. Néng độ đáy của tacrolimus phải được xác định khoảng 24 giờ sau liều Avagraf, ngay trước khi uỗng liều tiếp theo. Khuyến cáo theo đối nồng độ đáy thường xuyên trong hai tuần đầu sau ghép tang, sau đó theo đối định kì trong suốt thời gian điều trị đuy trì. Nồng độ tacrolimus đây trong máu cũng cần được theo đối sát sau khi chuyển từ Prograf sang Advagraf, sau điều chỉnh liều, các thay đổi trong phác đồ điều trị ức chế miễn dịch, hoặc đồng sử dụng những thuốc mà nó có thể thay đổi nồng độ tacrolimus trong máu toàn phần (xem Tương tác với các thuốc khác và các hình thức tương tác khác). Tần suất của theo dõi nồng độ thuốc trong máu phải được dựa trên nhu cầu lâm sàng. Tacrolimus là một chất có độ thanh thải thấp, sau khi điều chỉnh liều Advagraf có thể cần vài ngày để đạt được tình trạng ổn định của nỗng độ đích.
Dữ liệu từ các nghiên cứu lâm sàng cho thấy phần lớn bệnh nhân có thể được xử trí thành công nếu nồng độ đáy của tacrolimus trong mau được duy trì dưới 20 ng/ml. Cần quan tâm tới tình trạng lâm sàng của bệnh nhân khi phân tích ý nghĩa các nồng độ thuốc trong máu toàn phần. Trong thực hành lâm sàng, nồng độ đáy trong máu thường ở khoảng 5-20 ng/ml ở những người ghép gan và 10-20 ng/ml ở những người ghép thận và ghép tim ở giai đoạn sớm sau ghép tạng. Trong suốt giai đoạn điều trị đuy trì sau đó, nỗng độ trong máu thường trong khoang 5-15 ng/ml 6 nhimg người được ghép gan, thận và tim.
Advagraf là dạng bào chế của tacrolimus dùng đường uống ngày một lần. Khuyến cáo rằng liều uỗng hàng ngày của Advagraf nén được sử đụng ngày một lần vào buổi sáng. Viên nang cứng Advagraf tác dụng kéo dài nên được đùng ngay sau khi lấy ra khỏi vỉ thuốc. Bệnh nhân nên được hướng dẫn đề không nuốt chất hút ẩm. Viên nang phải được nuốt nguyên viên với chất lỏng tốt nhất là với nước). Advagraf thường nên uông khi dạ dày trống hoặc ít nhất 1 giờ trước bữa ăn hoặc 2 – 3 giờ sau bữa ăn, để đạt được sự hấp thu tối đa (xem Phần đặc tính dược động học). Nếu quên một liều buổi sáng thì phải uống lại càng sớm càng tốt trong cùng ngày. Không được uống liều gấp đôi vào buổi sáng hôm sau.
Ở những bệnh nhân không thể dùng thuốc đường uống trong thời gian ngay sau ghép tạng, điều trị với tacrolimus có thể khởi đầu bằng đường tiêm tĩnh mạch (xem Tóm tắt đặc tính sản phẩm đối với Prograf nồng độ 5 mg/ml cho dich để tiêm truyền) ở liều xấp xi 1⁄5 của liều uống được khuyến cáo cho chỉ định tương ứng.
Các sai lầm khi dùng thuốc, bao gồm thay đổi các dạng bào chế của thuốc tacrolimus phóng thích nhanh hay kéo đài một cách không cần thận, không chủ đích hay không được giám sát, đã từng xảy ra. Điều này đã dẫn đến các tác dụng ngoại ý nghiêm trọng, bao gồm thải ghép, hay các tác dụng phụ khác mà nó có thể là hệ quả của việc dùng tacrolimus thiểu hay quá liều. Bệnh nhân nên được điều trị duy trì với một dạng bào chế duy nhất của thuốc tacrolimus với liều hàng ngày tương ứng; những thay đổi về dạng bào chế hay phác đồ sử dụng chỉ được thực hiện đưới sự giám sát chặt chẽ của một chuyên gia ghép tạng (xem phần Liễu ding va phương pháp sử dụng và phần Các tác dụng ngoại ý).
Advagraf không được khuyến cáo sử dụng ở trẻ em dưới 18 tuổi do có ít dữ liệu về hiệu quả và/hoặc tính an toàn.
Để điều trị thải ghép dị sinh kháng với các thuốc ức chế miễn dịch khác ở người trưởng thành thì những đữ liệu lâm sàng chưa có đôi với thuôc Advagraf phóng thích kéo dải.
Đối với việc phòng ngừa thải ghép ờ những người nhận tim ghép trưởng thành thì dữ liệu lâm sàng cũng chưa có đổi với Advagraf.
Trong thời kì đầu sau ghép, phải thực hiện theo đối các thông số sau một cách thường qui và định kỳ: Đo huyết áp, điện tim, trạng thái thần kinh và thị giác, đường huyết lúc đói, điện giải (đặc biệt là kali máu), xét nghiệm chức năng gan và thận, các thông số huyết học, chức năng đông máu và lượng protein huyết thanh. Nếuthầy có các thay đổi quan trọng về mặt lâm sang, nên xem xét việc điều chỉnh các thuốc ức chế miễn địch.
Khi có các chất có khả năng tương tác khi sử dụng chung với tacrolimus (xem Tương tác với các thuốc và các hình thức tương tác khác) – đặc biệt những chất ức chế mạnh CYP3A4 (như ketoconazole, voriconazole, itraconazole, telithromycin hay clarithromycin) hay các dẫn chất của CYP3A4 (như rifampin, rifabutin) – nẵng độ tacrolimus trong máu phải được theo đối để điều chỉnh liều tacrolimus cho phù hợp để duy trì nồng độ tacrolimus tương đương.
Các thuốc dạng thảo dược kể cả St. John’s Wort (Hypericum perforatum) phải tránh dùng khi đang uống Advagraf bởi nguy cơ các tương tác thuốc có thể dẫn tới giảm nông độ thuốc trong máu và hiệu quả điều trị của tacrolimus (xem Tương tác với các thuốc khác và cav/hinth thức tương tác khác).
Phải tránh điều trị kết hợp ciclosporin và tacrolimus và cẩn trọng khi sử dụng tacrolimus trên những bệnh nhân trước đó có sử dụng ciclosporin (xem phân Liều dùng và phương pháp sử dụng và Tương tác với các thuôc khác và các hình thức tương tác khác).
Tránh sử dụng kali uống liều cao hoặc các thuốc lợi tiểu giữ kali (xem Tương tác với các thuôc khác và các hình thức tương tác khác).
Một số sự kết hợp nhất định giữa tacrolimus với các thuốc mà đã biết có thể gây độc thận hay độc thân kinh có thể làm tăng nguy cơ của những ảnh hưởng này (xem Tương tác với các thuôc khác và các hình thức tương tác khác).
Các thuốc ức chế miễn dịch có thể tác động đến sự đáp ứng với chủng ngừa và trong suốt thời gian điều trị với tacrolimus việc chủng ngừa có thể kém hiệu quả. Tránh sử dụng các loại vắc xin sống giảm độc lực.
Vì nồng độ tacrolimus trong máu có thể thay đổi đáng kể trong lúc tiêu chảy, theo đối thêm nồng độ tacrolimus được đề nghị trong các đợt tiêu chảy.
Phi đại thất hay phì đại vách ngăn, được báo cáo là bệnh lý cơ tim, đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân điều trị với Prograf trong một số ca hiểm gập và cũng có thể xảy ra với Advagraf. Hầu hết các trường hợp có thể phục hồi được, xây ra với nỗng độ đáy trong máu của tacrolimus cao hon nhiéu so với nồng độ tối đa đượckhuyến cáo. Các yêu tố khác được thấy làm tăng nguy cơ của những tình trạng lâm sàng này bao gôm bệnh tím mạch có trước đó, sử dụng corticosteroid, tăng huyết áp, suy chức năng gan hoặc thận, nhiễm trùng, quá tải dich va phù. Vì vậy cho nên, những bệnh nhân nguy cơ cao mà được điều trị ức chế miễn dịch mạnh thì phải được theo dõi, bằng cách sử dụng những cận lâm sảng như siêu âm hoặc điện tim trước và sau khi ghép tạng (ví dụ khởi đầu lúc 3 thang và sau đó 9- 12 tháng). Nếu thay có xuất hiện bất thường, giảm liễu Advagraf hay thay đổi điều trị qua những thuốc ức chế miễn địch khác phải được xem xét. Tacrolimus có thể làm kéo dải khoảng QT nhưng tại thời điểm này vẫn thiếu những bằng chứng rằng thuốc có thể gây ra xoắn đỉnh (Torsades de Pointes). Phải thận trọng trên những bệnh nhân có chẩn đoán hay nghỉ ngờ có hội chứng QT kéo dài bâm sinh.
Những bệnh nhân được điều trị với tacrolimus được báo cáo có bệnh lý tăng sinh lympho bao liên quan với nhiễm EBV (xem phần Các tác dụng ngoại ý). Một sự kết hợp của các thuốc ức chế miễn dịch như các kháng thể kháng Iympho (ví dụ basiliximab, daclizumab) cho dung đồng thời làm tăng nguy cơ các bệnh lý tăng sinh lympho bào liên quan với nhiễm EBV. Những bệnh nhân có EBV-VCA (EBV-Viral Capsid Antigen) âm tính đã được báo cáo có tăng nguy cơ phát trién các bệnh lý tăng sinh lympho bào. Vì thế, trong nhóm bệnh nhân này, xét nghiệm huyết thanh EBV-VCA nên được xác định trước khi bắt đầu điều trị với Advagraf. Trong suốt quá trình điều trị, khuyến cáo phải theo đôi cần thận với xét nghiệm PCR- EBV. PCR-EBV dương tính có thể tồn tại nhiều tháng và vì vậy không phải là chỉ điểm của bệnh tăng sinh lympho hoặc lymphoma.
Như với các thuốc ức chế miễn dịch mạnh khác, nguy cơ ung thư thứ phát chưa được biết (xem các tác dụng ngoại ý}
Như với các thuốc ức chế miễn dịch khác, do có khả năng gây các thay đổi ác tính ở đa, vì vậy phải hạn chế phơi nắng và tránh tia UV bằng cách mặc quần áo bảo vệ và sử dụng kem chống nắng có yêu tô bảo vệ cao.
Những bệnh nhân được điều trị với thuốc ức chế miễn dịch, bao gồm Advagraf thì có tăng nguy cơ nhiễm trùng cơ hội (vi trùng, nấm, vi rút và đơn bào). Trong cac bệnh lý nay thi bệnh thận do nhiễm ví rút BK và bệnh não chất trắng da ổ tiến triển có liên quan vi rút JC (PML). Những nhiễm trùng này thường liên quan tới tổng liều cao của thuốc ức chế miễn dịch và có thể dẫn tới các tình trạng bệnh lý nghiêm trọng hay nguy hiểm tới tính mạng, mà bác sỹ phải xem xét trong phần chân đoán phân biệt trên những bệnh nhân đang điều trị ức chế miễn dịch mà có tình trạng xấu đi trong chức năng thận hay có các triệu chứng thần kinh.
Bệnh nhân được điều trị với tacrolimus được báo cáo có hình thành hội chứng bệnh não sau có phục hồi (Posterior Reversible Enchphalopathy Syndrom-PRES). Nếu bệnh nhân đang sử dụng tacrolimus có biểu hiện các triệu chứng PRES như đau đầu, thay đôi trạng thái thần kinh, động kinh, rỗi loạn thị giác, thì nên làm xét nghiệm hình ảnh (ví dụ như MRI). Nếu có chấn đoán PRES, thì phải kiểm soát huyết áp và động kinh thích hợp và ngưng ngay thuốc tacrolimus. Hầu hết các bệnh nhân hồi phục hoàn toàn sau khi thực hiện các biện pháp điều chỉnh thích hợp.
Các trường hợp bất sản nguyên hồng cầu (PRCA) đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị với Tacrolimus. Tất cả các bệnh nhân đã báo cáo các yếu tổ nguy cơ đối với PRCA như nhiễm virus parvo BJ9, bệnh nền hay kết hợp dược phẩm liên quan tới PRCA.
Không có nhiều kinh nghiệm trên những bệnh nhân không phải da trắng và những bệnh nhân có tăng nguy cơ miễn dịch (ví dụ tái ghép, có bằng chứng của phảnứng kháng thể, PRA).
Giảm liều có thể cần thiết trên những bệnh nhân có suy giảm chức năng gan nặng (xem liều dùng và phương pháp dùng thuốc).
Viên nang Advagraf chứa lactose. Những bệnh nhân có các bệnh ly di truyền hiếm như không dung nạp galactose, suy giảm chức năng men lactase, hoặc kém hấp thu glucose- galactose thì không nên dùng thuốc này, Mực in dùng để đóng dấu trên viên nang Advagraf có chứa soya lecithin. Ở những bệnh nhân bị quá mẫn cảm với đậu phộng hay đậu nành, nguy cơ và mức độ của sự quá mẫn cảm phải được cân nhắc so với lợi ích khi dùng Advagraf.
Tacrolimus dùng đường toàn thân được chuyển hóa bởi CYP3A4 của gan. Cũng có bằng chứng của sự chuyển hóa ở đạ đày ruột bởi men CYP3A4 trong thành ruột. Sử dụng các thuốc đi kèm mà nó có ức chế hay cảm ứng CYP3A4 có thể ảnh hưởng tới sự chuyển hóa của tacrolimus và vì vậy làm tăng hay giảm nồng độ tacrolimus trong mau.
Theo dõi nồng độ tacrolimus trong máu được khuyến cáo khi sử dụng các thuốc đi kèm có khả năng thay đổi chuyển hóa CYP3A hay ảnh hưởng tới nông độ tacrolimus trong máu, và để điều chỉnh liều taerolimus thích hợp để duy trì nồng độ tacrolimus tương đương (xem phần Liều dùng và phương pháp sử dụng và phần Lưu ý và thận trọng đặc biệt khi sử dụng).
Về mặt lâm sàng những chất sau cho thấy làm, tăng tacrolimus trong máu: các tương tác mạnh đã được quan sát thấy với các thuốc kháng nấm như ketoconazole, fluconakolà`itraeonazole và voriconazole, kháng sinh macrolide erythromycin hay thuốc ức chế protease HIV ( ví dụ ritonavir). Sử dụng đi kèm những thuốc này có thể cân phải giảm liễu tacroliusy trên hầu hết các bệnh nhân. Nghiên cứu dược động học cho thay rằng tăng nồng độ trong máu chủ yếu là kết quả của tăng sinh khả đụng của tacrolimus đường uống dựa vào sự ức chế chuyển hóa ở đuờng tiêu hóa. Hiệu quả trên thanh thải ở gan thì ít đáng kể hơn.
Các tương tác yếu hơn đã được quan sát thấy ở clotrimazole, clarithromycin, josamycin, nifedipine, nicardipine, diltiazem, verapamil, danazol, ethinylestradiol, omeprazole va nefazodone.
Trong thược nghiệm (in vitro) thi các thuốc sau cho thấy có khả năng ức chế chuyển hóa đối với tacrolimus: bromocriptine, cortisone, dapsone, ergotamine, gestodene, lidocaine, mephenytoin, miconazole, midazolam, nilvadipine, norethindrone, quinidine, tamoxifen, (triacetyl) oleandomycin.
Nước bưởi đã được báo cáo làm tăng nồng độ tacrolimus trong máu và vì vậy nên tránh dùng. Lansoprazole và ciclosporin có thể có khả năng ức chế sự chuyên hóa qua trung gian CYP3A4 của tacrolimus và vì vậy làm tăng nồng độ tacrolimus trong máu toàn phần.
Tacrolimus gắn kết rất mạnh với protein huyết tương. Các tương tác có thể xảy ra với các hoạt chất khác mà được biết có ái tính cao với protein huyết thanh cần phải được xem xét (ví dụ như NSAID, kháng đông đường uống, hay các thuốc đái tháo đường dạng uống).
Những tương tác tiểm tàng khác mà có thể tăng nỗng độ toàn thân của tacrolimus bao gồm các thuốc tăng nhu động (ví dụ metoclopramide va cisapride), cimetidine và magneshun aluminium-hydroxide.
Về mặt lâm sàng những thuốc sau đã cho thấy làm giảm nồng độ tacrolimus trong máu: Tương tác mạnh đã được quan sát thay 6 rifampicin, phenytoin, St. John’s Wort (Hypericum perforatum) mà có thể cần tăng liều tacrolimus& hầu hết bệnh nhân. Những tương tác có ý nghĩa về mặt lâm sàng cũng được quan sát thay với phenobarbital. Liều corticosteroid duy tri cho thấy làm giảm nông độ tacrolimus trong mau.
Prenisolone hay methylprednisolone liều cao sử dụng để điều trị thải ghép cấp có khả năng làm tăng hay giảm nông độ tacrolimus trong máu.
Carbamazepin, metamizol va isoniazid cé tiêm năng làm giảm nông độ tacrolimus.
Tacrolimus là một chất ức chế CYP3A4; vì vậy việc dùng kèm taerolimus với các thuốc được biết là được chuyên hóa bởi CYP3A4 có thể ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của những thuốc nay.
Thời gian bán hủy cua ciclosporin kéo dài khi sử dụng kèm với tacrolimus. Hơn nữa, tác dụng độc thận cộng hưởng/thêm vào có thể xảy ra. Đôi với những lí do này, sử dụng kết hợp tacrolimus và ciclosporin không được khuyến cáo và việc theo dõi sát phải được thực biện khi sit dung tacrolimus cho những bệnh nhân mà có sử dụng ciclosporin trước đó (xem phần Liều dùng và phương pháp sử dụng và phan Lưu ý và thận trọng đặc biệt khi sử dụng).
Tacrolimus cho thấy tăng nông độ của phenytoin trong máu.
Tacrolimus có thể làm giảm độ thanh thải của các thuốc ngừa thai có gốc steroid dẫn tới làm tăng nồng độ hormone, cần phải thận trọng đặc biệt khi quyêt định chọn phương pháp ngừa thai.
Các hiểu biết về tương tác giữa tacrolimus và statin thi con hạn chễ. Dữ liệu lâm sàng gợi ý rằng dược động học của nhóm statin thì phần lớn không thay đổi khi sử dụng chung với tacrolimus.
Dữ liệu trên động vật cho thấy rằng tacrolimus có thể có làm giảm thanh thải và làm tăng thời gian bán hủy của pentobarbital va antipyrine.
Việc sử dụng đổng thời tacrolimus với các loại thuốc khác mà được biết là có ảnh hưởng độc thận hay độc thần kinh có thể làm tăng những tác động này (ví dụ như aminoglycoside, chất ức chế gyrase, vancomycin, cotrimoxazole, NSAID, ganciclovir hoặc aciclovir).
Tăng độc thận được quan sát thấy sau khí ding amphotericin B va ibuprofen chung voi tacrolimus.
Vì điều trị tacrolimus có thể làm tăng kali máu, hoặc làm tăng mức kali máu cao đã có trước đó, vì vậy phải tránh ăn uông chất có nhiêu kali, hay các thuốc lợi tiểu giữ kali (vi du amiloride, triamterene, hay spironolactone) (xem phần Lưu ý và thận trọng đặc biệt khi sử dung).
Các thuốc ức chế miễn dịch có thể ảnh hưởng đến sự đáp ứng đối với chủng ngừa và việc chủng ngừa trong suốt thời gian điều trị với tacrolimus có thể kém hiệu quả hơn. Nên tránh sử dụng các vắc xin sống giảm độc lực (xem phần Lưu ý và thận trọng đặc biệt khi sử dụng).
Dữ liệu trên người cho thấy rằng tacrolimus qua được hàng rào nhau thai. Những dữ liệu còn hạnchế từ những người nhận tạng ghép cho thấy không có bằng chứng của tăng nguy cơ các biển cố ngoại ý trên tiến trình và kết quả thai kỳ khi được điều trị với tacrolimus so với các thuốc ức chế miễndich khác. Tuy nhiên, các trường hop say thai ty phat đã được báo cáo. Cho tới hiện nay, vẫn chưa có các dữ liệu dịch tễ nào khác có liên quan. Điều trị tacrolimus có thể được xem xét dùng ở những phụ nữ có thai, khi không có điều trị thay thé nào khác an toàn hơn và khi lợi ích nhiều hơn khả năng nguy cơ đổi với bào thai. Trong trường hợp cótiếp xúc thuốc trong tửcung, khuyến cáo cần theo đối trẻ mới sinh về các biến cố ngoại ý có thể có của tacrolimus (nhất là tác động lên thận). Có nguy cơ sinh sớm (<37 tuần) (tỉ lệ 66 trong, 123 trường hợp, tương ứng 53.7%; tuy nhiên, các dữ liệu cho thấy rằng nhiều trẻ sơ sinh có cân nặng bình thường đối với tuổi thai của chúng) cũng như đối với tăng kali mau ở trẻ sơ sinh (tỉ lệ là 8 trong 111 trẻ, trương ứng với 7.2%) tuy nhiên sau đó đã tự trở về mức bình thường.
Ở chuột và thỏ, tacrolimus đã gây độc tính phôi thai ở những liều biểu hiện độc tính ở thú mẹ (xem phần đữ liệu an toàn tiền lâm sàng).
Các dữ liệu trên người cho thấy rằng tacrolimus được bài tiết qua sữa mẹ. Vì không thê loại trừ các tác dụng có hại đôi với trẻ sơ sinh, người mẹ đang sử dụng thuôc Advagraf không nên cho con bú.
Tác động tiêu cực của tacrolimus trên khả năng sinh sản ở giống đực do làm giảm số lượng và sự đi chuyển của tỉnh trùng đã được quan sát thấy ở chuột (xem phần các Dữ Liệu An Toàn Tiền Lâm Sàng).
Tacrolimus có thê gây ra các rối loạn về thị giác và thần kinh. Các tác dụng nảy có thể tăng hơn nếu sử dụng tacrolimus chung với rượu.
Không có nghiên cứu nào về tác động của tacrolimus (Avagraf) trên khả năng lái xe và sử dụng máy móc đã từng được thực hiện.
Hô sơ các tác dụng ngoại ý liên quan với việc dùng các thuộc ức chê miện dịch thì thường khó thiệt lập do bản chat của bệnh nên và việc dùng kèm nhiêu thuốc khác.
Những tác dụng ngoại ý do thuốc thường được báo cáo nhất (xảy ra > 10% bệnh nhân là run, suy thận, các tình trạng tăng đường huyết, đái tháo đường, tăng kali máu, nhỉnh huyết áp và mất ngủ.
Tần suất của các tác dụng ngoại ý được định nghĩa như sau: rất thường gặp >=1/10); thường găp 1/100 và <1/10); ít gặp >= 1/1000 và <1/100); hiếm gặp (> 1/10000 và <1/1000); rất hiếm gặp (<1/10000), không rõ tần suất (không thể ước tính từ những số liệu có sẵn). Trong mỗi nhóm tần suất, các tác dụng ngoại ý được trình bày theo thứ tự mức độ nghiêm trọng giảm dân.
Thường gặp: bệnh động mạch vành thiếu máu cục bộ, nhịp tim nhanh
Ít gặp: suy tim, loạn nhịp thất và ngưng tim, loạn nhịp trên thất, bệnh lý cơ tim, ECG bất thường, phì đại thất, hồi hộp đánh trống ngực, khám thực thê nhịp tim va mạch có bất thường.
Hiếm gặp: tràn dịch màng ngoài tim
Rất hiếm gặp: siêu âm tim có bất thường
Thường gặp: thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, phân tích tế bào hồng cầu bất thường, bệnh bạch cầu
Ít gặp: bệnh lý về đông máu, giảm toàn bộ các loại bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, phân tích máu chảy máu đông có bất thường.
Hiếm pặp: xuất huyết giảm tiểu cầu, giảm prothrombin
Không rõ: — bất sản nguyên hồng cầu, tiêu bạch cầu hạt, thiếu máu tán huyết.
Rất thường gặp: đau đầu, run
Thường gặp: rối loạn hệ thần kinh động kinh, rỗi loạn về nhận thức, bệnh thần kinh ngoại vị, chóng mặt, di cảm và loạn cảm, giảm khả năng viết.
it gặp: bệnh lý & não, xuất huyết hệ thần kinh trung ương và tai biến mạch máu não, hôn mê, bât thường về lời nói và ngôn ngữ, liệt và liệt nhẹ, giảm trí nhớ.
Hiếm gặp: tăng trương lực cơ
Rất hiếm gặp: nhược cơ
Thường gặp: rối loạn thị giác, nhìn mờ, sợ ánh sáng
Ít gặp: dục thủy tỉnh thể
Hiểm gặp: mù
Thường gặp: ùtai
it gặp: giảm thính lực
Hiểm gặp: điếc dẫn truyền
Rất hiếm gặp: điếc
Thường gặp: bệnh nhu mô phổi, khó thở, tràn dịch màng phối, ho, viêm họng, phủ nề và viêm mũi
it gặp: suy hô hấp, bệnh đường hô hấp, hen
Hiếm gặp: hội chứng suy hô hấp cấp
Rất thường gặp: tiêu chảy, buồn nôn
Thường gặp: các triệu chứng cơ năng và thực thể dạ dày ruột, nôn, đau bụng va dạ dày ruột, tinh trạng viêm dạ dày ruột, xuất huyết dạ dày ruột, loét và thủng dạ dày ruột, báng bụng, viêm và loét niêm mạc miệng, táo bón, các triệu chứng cơ năng và thực thể của khó tiêu, đầy hơi, cảm giác căng tức ở bụng, phân lỏng
it gặp: viêm tụy cấp và mạn, viêm phúc mạc, amylase máu tăng, liệt ruột, bệnh trảo ngược đạ đày thực quản, chậm làm trống da dày.
Hiếm gặp: nang giả tụy, bán tắc ruột
Rất thường gặp: suy thận
Thường gặp: suy thận, suy thận cấp, bệnh thận nhiễm độc, hoại tử ông thận, bất thường tiết niệu, thiểu niệu, triệu chứng bảng quang và niệu đạo.
Ít gặp: hội chứng tán huyết do ure máu cao, vô niệu
Rất hiếm gặp: bệnh cầu thận, xuất huyết bằng quang
Thường gặp: nổi mẫn, ngứa, rụng tóc, mụn, tăng tiết mỗ hôi
Ít gặp: viêm đa, nhạy cảm ánh sáng
Hiểm gặp: hoại tử thượng bì do nhiễm độc (Hội chứng Lyell)
Rất hiếm gặp: hội chứng Stevens Johnson
Thường gặp: đau khớp, đau lưng, vọp bé, đau trong chỉ
Ít gặp: bệnh ở khớp
Hiểm gặp: chứng rậm lông
Rất thường gặp: đái tháo đường, tình trạng tăng đường huyết, tăng kali máu
Thường gặp: chán ăn, toan chuyên hóa, các bất thường về điện giải khác, hạ natti máu, qúa tải dịch, tăng acid uric máu, giảm magne máu, giảm kali máu, canxi máu, giảm ngon miệng, tăng cholesterol máu, tăng lipid máu, tăng triglyeerid máu, giảm phosphat máu
Ít gặp: mắt nước, giảm đường huyết, giảm protein trong máu, tăng phosphat máu
Như đã được biết rõ đối với các thuốc ức chế miễn dịch mạnh khác, các bệnh nhân dùng tacrolimus thường có tăng nguy cơ bị nhiễm khuẩn (siêu vi khuẩn, vi khuẩn, nam, sinh vật đơn bào). Tình trạng nhiễm khuẩn có trước khi dùng thuốc có thé bi nang hon. Ca nhiễm khuẩn toàn thân và tại chỗ đều có thê xảy ra.Những trường hợp bệnh câu thận có liên quan virus BK, cũng như bệnh não chất trắng đa ôtiên triên (PML), đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị với thuộc ức chế miễn dịch, kê cả Advagraf.
Thường gặp: loạn chức năng tạng ghép chính
Các sai lầm khi dùng thuốc, bao gồm thay đổi các dạng bào chế của thuốc tacrolimus phéng thích nhanh hay kéo dài một cách không cần thận, không chủ đích hay không được giám sát, đã từng xảy ra. Một số trường hợp thải ghép do các sai lầm này đã từng được báo cáo (các dữ liệu hiện có không đủ để ước lượng tần suất).
Những bệnh nhân dùng tacrolimus thì tăng nguy cơ phát triển các tân sinh ác tính. Các tân sinh lành tính cũng như ác tính bao gồm bệnh tăng sinh Iympho đo EBV và bệnh ác tính ở da đã được báo cáo với các trường hợp điều trị tacrolimus.
Rất thường gặp: tăng huyết áp
Thường gặp: tác dụng huyết khối thuyên tắc và thiếu máu cục bộ, bệnh giảm huyết áp do mạch máu, xuất huyết, bệnh mạch máu ngoại biên
it gap: thuyên tắc tĩnh mạch sâu ở chí, sốc, nhồi máu
Thường gặp: sốt, đau và khó chịu, tình trạng suy nhược, phù, rối loạn trong cảm nhận về thân nhiệt, alkaline phosphatase mau tang, tăng cân.
Ít gặp: giảm cân, bệnh giống như cúm, lactate dehydrogenase máu tăng, cảm giác căng thẳng thần kinh, cảm thấy bất thường, suy đa cơ quan, cảm giác chẹn ở ngực, không thích nghỉ với nhiệt độ thay đổi
Hiểm gặp: té ngã, loét, tức ngực, giảm vận động, tăng mô mỡ
Các phản ứng dị ứng và dạng phản vệ đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng tacrolimus (xem phần “Các lưu ý đặc biệt và thận trọng khi sử dụng”).
Rất thường gặp: xét nghiệm chức năng gan bất thường
Thường gặp: bệnh ống mật, tốn thương tế bảo gan và viêm gan, tắc mật và vàng da Hiém gap: bệnh gan tắc tĩnh mạch, thuyên tắc động mạch gan
Rất hiểm gặp: Suy gan
it gặp: rối loạn kinh nguyệt và chảy máu tử cung
Rất thường gặp: mắt ngủ
Thường gặp: lẫn lộn và rối loạn khả năng định hướng, trầm cảm, triệu chứng lo âu, hoang tưởng, bệnh tâm thần, giảm khí sắc, bệnh khí sắc và rối loạn khí sắc, ác mộng
Ít gặp: bệnh loạn thần
Kinh nghiệm về quá liều còn hạn chế. Nhiều trường hợp quá liều với tacrolimus do vô ý đã được báo cáo; các triệu chứng bao gồm run, đau đầu, buồn nôn và nôn, nhiễm trùng, nổi mề đay, ngủ gà và tăng nồng độ urea nitrogen máu, creatinine và alanine aminotransferase huyết thanh.
Không có thuốc đối kháng đặc hiệu cho tacrolimus. Nếu xảy ra quá liều, nên áp dụng các biện pháp hỗ trợ chung và điều trị triệu chứng.
Do có trọng lượng phân tử lớn, độ tan trong nước kém, và mức gắn kết vào hồng cầu và protein huyết tương cao, dự đoán răng tacrolimus sẽ không thể thâm phân. Ở vài trường hợp bệnh nhân có nồng độ thuốc huyết tương rất cao, lọc máu đã có hiệu quả làm giảm nông độ độc tính. Nếu nhiễm độc qua đường uống, rửa dạ dày và/hoặc dùng chất hấp thụ (như than hoạt tính) có thể giúp ích, nêu được xử trí sớm sau khi uống quá liễu.
Tính chất dược lực học
Nhóm dược lý điều trị: Ức chế miễn dịch, ức chế calcineurin, mã ATC: L04AD02
Ở mức độ phân tử, những tác động của tacrolimus có vẻ có qua trung gian gắn vào một protein nội bào (FKBP12) nhờ đó tích tụ thuốc trong nội bào. Phức hợp FKBP12-tacrolimus gắn kết chuyên biệt và cạnh tranh vào calcineurin và ức chế chất này, dẫn đến ức chế các đường dẫn truyền tín hiệu tế bào T có phụ thuộc calcium, vì vậy ngăn chặn sự sao chép một bộ cytokin gen nhất định.
Tacrolimus là một thuốc ức chế miễn dịch có hiệu lực cao và đã chứng tỏ hoạt tính trong ca cac thir nghiém in vitro va in vivo.
Đặc biệt là, tacrolimus ức chế hình thành các tế bao lympho độc tế bao, mà chịu trách nhiệm chính cho sự thải phép. Tacrolimus ức chế sự hoạt hóa tế bào T và ức chế sinh tăng tế bào B có phụ thuộc tế bào T giúp do (T-helper-cell dependent B-cell proliferation cũng như sự hình thành các lymphokine (như interleukin-2, -3, và y-interferon) và biểu hiện thụ thể interleukin-2.
Hiệu quả và tính an toàn của Advagraf và Prograf, cả hai đều có kết hợp với corticosteroid, đã được so sánh trong 471 người nhận gan ghép mới (de novo). Tần suất sinh thiết xác định có thải ghép cấp tính trong vòng 24 tuần sau ghép là 32.6% trong nhóm Advagraf (N=237) và 29.3% trong nhóm Prograf (N=234). Sự khác biệt điều trị (Advagraf — PrograÐ) là 3.3% (khoảng tin cậy 95% [-5.7%, 12.39%]). Tỉ lệ số bệnh nhân còn sống ở thời điểm 12 tháng là 89.2% đối với Advagraf và 90.8% đối với Prograf; có 25 bệnh nhân trong nhóm Advagraf tử vong (14 nữ, 11 nam) và có 24 bệnh nhân tử vong trong nhóm Prograf(5 nữ, 19 nam). Tạng ghép còn sống sau 12 tháng là 85.3% đối với Advagraf và 85.6% đối với Prograf.
Hiệu quả và tính an toàn của Advagraf và Prograf, cả hai đều có kết hợp với mycophenolate mofetil (MMF) và corticosteroid, đã được so sánh trên 667 bệnh nhân ghép thận mới (de novo). Tần suất thải ghép cấp tính có xác định bằng sinh thiết trong vòng 24 tuần sau ghép là 18.6% trong nhóm Advagraf (N=331) và 14.9% trong nhóm Prograf (N=336). Sự khác biệt điều trị (Advagraf— Prograf) là 3.8% (khoảng tín cậy 95% [-2.1%, 9.6%]). Tần suất bệnh nhân còn sống ở thời điểm 12 tháng là 96.9% đối với Advagraf và 97.5% đỗi với Prograf; có 10 bệnh nhân trong nhóm Advagraf tử vong (3 nữ, 7 nam) và có 8 bệnh nhân tử vong trong nhóm Prograf (3 nữ, 5 nam). Mô ghép còn sống ở thời điểm 12 tháng là 91.5% đối với Advagraf và 92.8% đối với Prograf.
Hiệu quả và tính an toàn của Prograf, ciclosporin và Advagraf, tất cả đều có kết hợp với dẫn xuất kháng thể basiliximab, MME và corticosteroid, được so sánh trong 638 người được ghép thận mới (de novo). Tì lệ điều trị không hiệu quả ở 12 tháng (được định nghĩa là tử vong, mất tạng ghép, thải ghép cấp tính được xác định băng sinh thiết, hay mắt theo dõi ) là 14.0% trong nhóm Advagraf (N=214), 15.1% trong nhóm Prograf (N=212) va 17% trong nhóm cielosporin vn212). Sự khác biệt điều trị là -3.0%(Advagraf ciclosporin) (khoảng tin cậy 95.2% [-9.9%, 4.0%]) đối với Advagraf so với ciclosporin và-1.9% (Prograf ciclosporin) (khoảng tin cậy 95.2% [-8.9%, 5.2%]) đối với Prograf so vớiciclosporin. Tỉ lệ bệnh nhân còn sông ở thời điểm 12 tháng là 98.6% đối với Advagraf, 95.7% đổi với Prograf và 97.6% đổi với ciclosporin; trong nhánh Advagraf có 3 bệnh nhân tử vong (tất cả đều là nam), trong nhánh Prograf có 10 bệnh nhân tử vong (3 nữ, 7 nam) và trong nhánh cielosporin có 6 bệnh nhân tử vong (3 nữ, 3 nam). Tỉ lệ tạng ghép còn sống ở thời điểm 12 tháng là 96.7% đối với Advagraf, 92.9% đối với Prograf và 95.7% đối với ciclisporin.
Trong những nghiên cứu tiền cửu Prograf đường uống được khảo sát như là thuốc ức chế miễn dịch chính trong xắp xi 175 bệnh nhân được ghép phổi, 475 bệnh nhân ghép tụy và 630 bệnh nhân được ghép ruột. Nhìn chung, dữ liệu về tính an toàn của thuốc Prograf uống trong những nghiên cứu đã được xuất bản này cho thấy kết quả tương tự như những kết quả đã được báo cáo ở những nghiên cứu lớn với Prograf được sử dụng như điều trị chủ yếu ở ghép gan, thận và tìm. Các kết quả hiệu quả của những nghiên cứu lớn nhất trong mỗi chỉ định được tóm tắt ở đưới đây.
Phân tích giữa kỳ của một nghiên bứu đa trung tâm gần đây sử dụng Prograf uống đã thảo luận L10 bệnh nhân đã được phân bố ngẫu nhiên với tỉ lệ 1: 1 dùng hoặc tacrolimus hoặc ciclosporin. Tacrolimus được,bat đầu bằng truyền tĩnh mạch liên tục với liều 0,01 tới 0,03 mg/kg/ngày và tacrolimus’ trắng được.dùng với liễu 0,05 tới 0,3 mg/kg/ngày. Ti lệ thấp hơn của những giai đoạn thải“gltép-eábđối với những bệnh nhân điều trị với tacrolimus so véi eielosporin (11,5% so với 22,6%) và tần suất thấp hơn về thải ghép mạn tính, hội chứng viêm phế quản tắc nghẽn (2,86% so với 8,57%), được báo cáo trong năm đầu tiên sau khi ghép. Tỉ lệ bệnh nhân còn sống ở thời điểm một năm là 80,8% ở nhóm taerolimus và 83% trong nhóm ciclosporin.
Một nghiên cứu ngẫu nhiên khác bao gdm 66 bénh nhan diéu trị với tacrolimus so với 67 bệnh nhân sử dụng cielosporin.
Tacrolimus được bắt đầu bằng truyền tĩnh mạch liên tục với liều 0,025 me/kg/ngay va tacrolimus uống được sử dụng với một liều 0,15 mg/kg/ngày với những lần điều chỉnh liều tiếp theo để đạt mục tiêu nồng độ đáy 10 tới 20 ng/ml. Tỷ lệ bệnh nhân còn sống ở thời điểm 1 nam 14 83% & nhém tacrolimus va 71% ở nhóm ciclosporin, tỉ lệ còn sống ở thời điểm 2 năm là lần lượt là 76% và 66%. Các đợt thải ghép cấp đổi với mỗi 100 ngày điều trị bệnh nhân (patient-days) ít hơn về số lượng trong nhóm tacrolimus (0,85 đợt) so với nhóm ciclosporin (1,09 đợt). Viêm phế quản tắc nghẽn (obliterative bronchiolitis) tăng trong 21,7% số bệnh nhân trong nhóm tacrolimus so với 38% bệnh nhân trong nhóm ciclosporin (p= 9.025). Nhiều bệnh nhân được điều trị với ciclosporin (n=13) phai chuyén qua tacrolimus hon so với số bệnh nhân được diéu trj tacrolimus phai chuyén qua ciclosporin (n=2) (p = 0.02) (Keenan et al., Ann Thoracic Surg 1995;60:580).
Trong một nghiên cứu bổ sung ở hai trung tâm, 26 bệnh nhân được phân bố ngẫu nhiên vào nhóm tacrolimus so với 24 bệnh nhân vào nhóm cielosporin. Tacrolimus được bắt đầu truyền tĩnh mạch liên tục với liều 0,05 mg/kg/ngày và tacrolimus uống được sử dụng với liều 0,1 đến 0.3 mg/kg/ngày với những lần điều chỉnh liều tiếp theo để đạt mục tiêu nồng độ đáy từ 12 tới 15 ng/ml. Ti lệ bệnh nhân còn sống ở thời điểm một năm là 73,1% trong nhém tacrolimus so với 79,2% trong nhóm ciclosporin. Tỉ lệ không bị thải ghép cấp thì cao hơn trong nhóm tacrolimus ở thời điểm 6 tháng (57,7% so với 45,8%) và tại một năm sau ghép phổi (50% so với 33,3%).
Ba nghiên cứu đã cho thấy tỉ lệ sống còn tương tự nhau. Tỉ lệ thải ghép cấp thì có số lượng thấp hơn khi điều trị với tacrolimus trong cả ba nghiên cứu và có một nghiên cứu đã báo cáo có một tỉ lệ thấp hơn đáng kể của hội chứng viêm phế quản tắc nghẽn khi điều trị với tacrolimus.
Một nghiên cứu đa trung tâm sử dụng thuốcuống Prograf đã tuyển chọn 20% bệnh nhân trải qua ghép đồng thời tụy-thận được phân bố ngẫu nhiên vào nhóm tacrolimus (n=103) hoặc ciclosporin (n=102). Liều uống ban đầu theo để cương quy định cho tacrolimus là 0,2 mg/kg/ngày với những điều chỉnh liều sau đó dé đạt liều đáy mục tiêu là 8 tới 15 ngím] vào ngày 5 va Š tới 10 ng/ml sau tháng 6. Tỉ lệ tụy còn sống ở năm đầu tiên cao hơn đáng kể ở nhóm tacrolimus: 91,3% so với 74,5% ở nhóm ciclosporin (p < 0.0005), trong khi đó tỉ lệ thận còn sống thì tương tự ở cả hai nhóm. Có tổng số 34 bệnh nhân được chuyên điều trị từ ciclosporin sang tacrolimus, trong khi chỉ có 6 bệnh nhân ở nhóm tacrolimus phải chuyển qua điều trị kia (ciclosporin).
Những kinh nghiệm lâm sàng đã được xuất bản từ nghiên cứu đơn trung tâm về sử dụng Prograf đường uống là điều trị chính sau ghép ruột cho thấy rằng tỉ lệ sông còn của 155 bệnh nhân (65 chỉ ghép ruột, 75 ghép gan và ruột, và 25 ghép nhiều tạng) điều trị với tacrolimus và prednisone là 75% ở năm đầu tiên, 543% ở 5 năm và 42% ở 10 năm.(Ren “những năm đầu liều uống ban đầu của tacrolimus là 0,3 mg/kg/ngày. Các kết quả đã cải thi ôđMiện ítucAdi kinh nghiệm tăng dan qua thời gian 11 năm. Nhiều tiễn bộ mới, như kĩ thuật đề phat Hiến sớm đối với nhiễm virus Epstein-Barr (EBV) va CMV, tang tủy xương, sử `“4 kèm thuốc dacliznmab đối van interleukin-2, liéu tacrolimus khởi đầu thấp hơn với nông› độ đáy mục tiêu 1a LŨ tới 15 ng/ml, va gần đây nhất là chiếu xa tạng ghép đã được xem xét dé góp phân vào cải thiện những kết quả trong chỉ định này theo thời gian.
Ở người tacrolimus da cho thấy có thể được hấp thu qua ống tiêu hóa da day ruột. Tacrolimus đưa vào thường được hấp thu nhanh chong. Advagraf 1a dang bào chế phóng thích kéo dài của tacrolimus cho kết quả mở rộng thêm dữ liệu hấp thu bằng đường uống với thời gian trung bình để đạt nồng độ tối đa trong máu (Cmax) xắp xỉ khoảng 2 giờ (max).
Sự hấp thu thay đổi và sinh khả dụng đường uống trung bình của tacrolimus (được khảo sát ở dạng bào chế Prograf) trong ngưỡng 20-25% (ngưỡng từng cá nhân người trưởng thành từ 64-43%). Sinh khả dụng đường uông của Advagraf giảm khi uỗng sau bữa ăn. Cả tỉ lệ và mức độ của sự hấp thu của Advagraf đều giảm khi sử dụng chung với thức ăn.
Mật tiết ra không tác động đến sự hấp thu của tacrolimus và vì vậy điều trị với Advagraf có thể bắt đầu bằng đường uống. Một mối tương quan đáng kể tồn tại giữa AUC và nồng độ đáy trong máu toàn phần ở giai đoạn ổn định đối với Advagraf. Vì vậy theo dõi nồng độ đáy trong máu toàn phần có thê cho ước lượng tốt của nồng độ thuốc toàn thân.
Ở người, sự phân bố của tacrolimus sau tiêm truyền tĩnh mạch có thể được mô tả bằng hai pha.
Trong vòng tuần hoàn toàn than, tacrolimus gan két chặt vào hồng câu đo vậy có tỉ lệ phân bộ xấp xỉ 20:1 của nổng độ thuốc trong máu toàn phẩn/huyết tương. Trong huyết tương tacrolimus gắn kết cao (> 98.8%) với các protein huyết tương, chủ yếu là albumin và a-1-acid glycoprotein.
Tacrolimus được phân bố rộng khắp trong cơ thé. Thể tích phân bố trong giai đoạn én định dựa trên nồng độ huyết tương xấp xỉ 1300l (ở người khỏe mạnh). Các đữ liệu trơng ứng dựa trên máu toàn phần trung bình là 47,61.
Tacrolimns được chuyển hóa nhiều ở gan, chủ yếu bởi cytochrome P450-3A4. Tacrolimus còn được chuyên hóa đáng kể ở trong thành ruột. Có nhiều chất chuyển hóa đã được xác định. Chỉ có một trong số các chất này cho thấy có hoạt tính ức chế miễn dich in vitro tương tự tacrolimus. Những chất chuyển hóa khác chỉ có hoạt tính ức chế miễn dịch yếu hoặc không có. Trong hệ thống tuần hoàn chỉ có một trong số các chất chuyển hóa bất hoạt hiện diện ở các nồng độ thấp. Vì vậy, các chất chuyển hóa không góp phần vào hoạt tính được lí của tacrolimus.
Tacrolimus là một thất có độ thanh thải kém. Ở người khỏe mạnh, độ thanh thải toàn thân trung bình được ướẻ tính từ các nỗng độ trong máu toàn phần là 2,25 l/giờ. Ở bệnh nhân trưởng thành ghépgan, than hay tìm, thì có giá trị thanh thải lần lượt được quan sát lần lượt là 4,1 1⁄giờ, 6,7 l/giờ và 349L/piờ. Cácyếu tố như nồng độ haematocrit hay protein thấp, kết quả la lam tang ti 1é tacrolimus khéng găn kết, hay tăng chuyển hóa khởi phát bởi corticosteroid, được xem là chịu trách nhiệm cho tỉ lệ thanh thải cao hơn của thuốc được thấy sau ghép tạng.
Thời gian bán hủy của tacrolimus kéo dai và thay đổi. Ở người khỏe mạnh, thời gian bán hủy trung binh trong máu toàn phần xấp xi 43 giờ.
Sau khi dùng đường tiêm tĩnh mạch và đường uống tacrolimus có đánh đầu đồng vị L4C, đa số hoạt tính phóng xạ được thải trừ trong phân. Khoảng 2% hoạt tính phóng xạ thải trừ trong nước tiểu ít hơn 1% tacrolimus ở đạng không đổi được phát hiện trong nước tiểu và phân, cho thấy rằng tacrolimus được chuyên hóa hầu như hoàn toàn trước khi thải trừ: mật là đường thải trừ chính.
3 năm kê từ ngày sản xuất. 1 năm sau khi mở bao nhôm.
Bảo quản ở nhiệt độ không quá 30°C. Tránh ẩm.
Để xa tầm tay trẻ em
Hộp chứa 5 vi, mỗi vỉ chứa 10 viên nang cứng phóng thích kéo dài.
Vi nhôm PVC/PVDC trong suốt được gói trong một bao nhôm với chất hút ẩm chứa 10 viên nang trong một vỉ.
Astellas Ireland Co., Ltd,
Địa chỉ: Killorglin, Co. Kerry, Ai- len
Janssen Cilag Ltd.
Địa chỉ: 106 Moo 4 Lad Krabang Industrial Estate Chalongkrung Rd., Kwaeng Lamplatew, Khet Lad Krabang, Bangkok 10520 Thailand
Số: VN-16291-13
Ailen
Không có bình luận nào
Không hiển thị thông báo này lần sau.
Chưa có đánh giá nào.