Viêm tắc động mạch chi là gì?

Viêm tắc động mạch chị là căn bệnh có thể dẫn đến hoại tử và cắt bỏ toàn bộ chân hoặc tháo khớp phần tắc. Viêm tắc mạch chi chủ yếu sảy đến ở phần chi dưới, nhưng lại cực kỳ nguy hiểm nếu không được xử lý sớm.

Triệu chứng viêm tắc động mạch chi?

Có nhiều triệu chứng nhận biết viêm tắc động mạch chi như; thiếu máu mãn – bán cấp – hay cấp tính ở đầu ngón chân. Biểu hiện nhận biết qua hình thái màu sắc của chân như; xanh tái khi làm việc hoặc thay quần. Rối loạn cảm giác chi (paresthesia), Liệt vận động (paralysis)…

Triệu chứng lâm sàng được mô tả bởi 6 chữ P:

  • Pain: Đau
  • Pulselessness: Mất mạch
  • Pallor: Nhợt
  • Paresthesias: Dị cảm
  • Paralysis: Mất vận động
  • Poikilothermia: Lạnh bên chi tắc mạch.

Nguyên nhân viêm tắc động mạch chi?

Xem thêm

Bệnh có 3 nguyên nhân chính gồm; do cục máu đông từ vị trí khác chạy xuống, do huyết khối hình thành trên mạch máu, do chấn thương mạch máu.

Viêm tắc động mạch chi!
Viêm tắc động mạch chi!

Cục máu đông chạy xuống:

Đây là nguyên nhân chính, chiếm đến 90% các căn bệnh viêm tắc động mạch chi dưới. Bệnh sảy đến chủ yếu do nhồi máu cơ tim, phình vách liền thất, u nhầy nhĩ trái, và một số bệnh lý van tim khác.

Huyết khối hình thành:

Xơ vữa động mạch là nguyên nhân chính hình thành huyết khối, có thể biểu mô hoá hoặc tổ chức hoá làm hẹp lòng mạch, dần dần gây tắc lòng mạch. Ngoài ra các bệnh lý như bóc tách động mạch chủ, đa hồng cầu, phình động mạch, tăng tiểu cầu …

Chấn thương mạch máu:

Đây cũng là nguyên nhân thường gặp ở bệnh tắc mạch chi dưới khi xảy ra chấn thương mạch máu, va chạm giập mạch máu, gây phù nề, chèn ép động mạch.

Mức độ thiếu máu?

+ Giai đoạn 0: Không có T2

+ Giai đoạn 1: Tương ứng có 1 T2 trên chụp ĐM, song không có biểu hiện lâm sàng.

+ Giai đoạn 2: Tương ứng thiếu máu chức năng (có đau cách hồi). Cần phải chia nhỏ giai đoạn này làm 3:

  • Giai đoạn 2 nhẹ : đau cách hồi khi đi > 300m, không có di chứng trừ khi có 1 đau do T2 trên cao.
  • Giai đoạn 2 vừa: đau khi đi 100 – 300m, có di chứng
  • Giai đoạn 2 nặng: đau cách hồi nặng, đi < 75 m (nhiều khi không quá 10-20m) – Coi như giai đoạn chuyển tiếp sang giai đoạn 3.

+ Giai đoạn 3: đau liên tục, ngay cả khi nằm, kéo dài trong nhiều tuần, cản trở giấc ngủ trong phần lớn đêm, buộc bệnh nhân phải ngủ trên ghế fauteuil -> cải thiện phần nào tưới máu ĐM chi dưới, nhưng dẫn đến phù -> không thuận lợi cho tuần hoàn chung của chi.

+ Giai đoạn 4: xuất hiện các rối loạn dinh dưỡng da, hoại tử. Nó có thể ở các đầu ngón -> nên không phải luôn là các biểu hiện xấu, trừ khi kèm nhiễm trùng. Tuy nhiên, nó có 1 ý nghĩa xấu nếu nó tiếp theo với giai đoạn.

Mức độ nghiêm trọng?

Giai đoạn I: Người bệnh chưa mất cảm giác, vận động cơ còn tốt. Kiểm tra còn có mạch. Giai đoạn này không đe dọa cắt cụt chi ngay lập tức và có thể bảo tồn được.

Giai đoạn IIa: Người bệnh không yếu cơ (còn vận động tốt) nhưng đã mất cảm giác ở đầu chi (như ở ngón chân). Những trường hợp này có thể bảo tồn chi, tuy nhiên cần theo dõi rất sát.

Giai đoạn IIb: Người bệnh đã mất cảm giác chi, phía trên các ngón chân, có liệt nhưng không hoàn toàn. Đây là trường hợp cần cấp cứu không thể trì hoãn, chỉ có thể bảo tồn chi nếu điều trị can thiệp ngay lập tức.

Giai đoạn III: Đây là giai đoạn cuối với biểu hiện liệt và mất cảm giác hoàn toàn chi. Khi bệnh nhân trong giai đoạn này, sẽ không thể bảo tồn chi, bắt buộc phải cắt cụt chi tránh tử vong do nhiễm độc chi bị hoại tử.

Điều trị viêm tắc động mạch chi dưới?

Chống ngưng tập tiểu cầu:

Chỉ định trong điều trị BĐMCD không triệu chứng với ABI ≤ 0,9

  • Giảm nguy cơ NMCT, đột quỵ, tử vong do nguyên nhân mạch máu khác.

Aspirin (75 – 325 mg/ng): an toàn và hiệu quả trong chỉ định điều trị BĐMCD do xơ vữa.

Clopidogrel (75 mg /ng): an toàn và hiệu quả trong chỉ định thay thế Aspirin để điều trị BĐMCD do xơ vữa.

Hiệu quả chưa rõ ràng về điều trị thuốc chống ngưng tập tiểu cầu đối với BĐMCD do xơ vữa không triệu chứng và ABI từ 0,91 – 0,99.

Phẩu thuật thiếu máu chi dưới trầm trọng:

Bệnh nhân TMCDTT có tổn thương cả tầng động mạch chủ – chậu và đùi – khoeo, cần được ưu tiên điều trị tầng động mạch chủ – chậu trước.

Nên chỉ định can thiệp nong bóng để cải thiện tưới máu động mạch phía xa ở bệnh nhân thiếumáu chi dưới trầm trọng có tiên lượng sống dưới 2 năm hoặc không thể làm phẫu thuật bắc cầu nối ĐM bằng tĩnh mạch tự thân.

Nên chỉ định phẫu thuật bắc cầu để cải thiện tưới máu động mạch phía xa ở bệnh nhân thiếumáu chi dưới trầm trọng có tiên lượng sống trên 2 năm và có khả năng làm phẫu thuật bắc cầu nối ĐM bằng tĩnh mạch tự thân.

Tiêu huyết khối thiếu máu cấp hoặc mạn:

Điều trị tiêu huyết khối qua catheter là phương pháp hiệu quả để điều trị bệnh nhân TMCCD có thời gian dưới 14 ngày.

Dụng cụ hút huyết khối được cân nhắc sử dụng với bệnh nhân thiếu máu cấp chi dưới do tắc nghẽn động mạch ngoại vi.

Tiêu huyết khối qua đường catheter và hút huyết khối có thể cân nhắc chỉ định với bệnh nhân TMCCD có thời gian trên 14 ngày.

Điều trị nội và ngoại khoa?

Tránh sự lan rộng của cục máu đông: Từ khi ra đời thuốc heparin, tạo ra cuộc cách mạng trong điều trị thiếu máu cấp tính chi dưới. Heparin sẽ được bác sĩ dùng ngay khi xác định chẩn đoán. Bên cạnh điều trị thuốc, cần sớm xử lý lấy bỏ cục máu gây tắc mạch, phương pháp hiện nay chủ yếu bằng phẫu thuật. Cục máu đông sẽ được lấy bỏ bằng một dụng cụ đặc biệt, gọi là Fogarty. Đến nay, một số trung tâm mạch máu tại các bệnh viện lớn của nước ta đã được trang bị dụng cụ này để có thể tiến hành phẫu thuật cấp cứu. Ngoài ra, tùy vào bệnh lý cụ thể, có thể phải cân nhắc làm cầu nối mạch máu hoặc dùng thuốc làm tan huyết khối hoặc phối hợp với kỹ thuật hút bỏ huyết khối. Khi có dấu hiệu chèn ép khoang, cần phải phối hợp mở cân.

Cắt cụt chi là phương pháp cuối cùng, khi thiếu máu không hồi phục hoặc khi điều trị tái tưới máu thất bại, có rối loạn toàn thân do hội chứng tái tưới máu, rối loạn chuyển hóa gây đe dọa tính mạng.

Bên cạnh điều trị tái tưới máu, cần điều trị các bệnh lý gây thuận lợi cho tắc mạch, điều trị các nguyên nhân dẫn đến tắc mạch chi cấp như bệnh van tim, rối loạn nhịp tim, bệnh lý mạch máu mạn tính…

Để phòng tránh tắc mạch chi dưới cấp tính, cần điều trị tốt các bệnh lý có thể là nguyên nhân dẫn đến tắc mạch cấp và quan trọng nhất là khi có biểu hiện bất thường, cần nhanh chóng đến cơ sở chuyên khoa mạch máu để được thăm khám, chẩn đoán và điều trị sớm nhất. Hiện nay, đa số bệnh nhân đến viện vẫn còn ở giai đoạn muộn dẫn đến khả năng bảo tồn chi còn rất hạn chế. Một số người bệnh có đến viện nhưng không đúng chuyên khoa cũng dẫn đến mất cơ hội bảo tồn chi và làm giảm kết quả điều trị, vì vậy trong tắc động mạch chi cấp tính, vấn đề chẩn đoán kịp thời và thời gian được điều trị là rất quan trọng.

Nguồn: PGS.TS. Nguyễn Hữu Ước/ BS. Ngô Tuấn Anh

Xem thêm: Tai biến mạch máu não, triệu chứng, điều trị!