Bệnh Tay Chân Miệng (Hand – Foot – Mouth Disease – HFMD) là bệnh truyền nhiễm gây thành dịch trong cộng đồng, do một số chủng virus đường ruột gây ra và lây lan theo đường tiêu hóa. Bệnh lây trực tiếp từ người sang người, thường gặp ở nhũ nh và trẻ em, đặc biệt bệnh thường gây thành dịch ở các nhà trẻ, nhà mẫu giáo. Trên lâm sàng bệnh Tay – Chân – Miệng có các biểu hiện đặc trưng bởi sốt, đau họng và nổi ban có bọng nước ở chân, tay, miệng.

Bệnh thường diễn biến lành tính và hồi phục sau 5 – 10 ngày. Tuy nhiên một số trường hợp bệnh diễn biến nặng, có tổn thương viêm não, viêm cơ tim, phù phổi cấp và dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện, xử trí kịp thời

1. CĂN NGUYÊN GÂY BỆNH

Cho đến nay, các virus đường ruột vẫn chưa được biết một cách đầy đủ. Tuy nhiên về mặt vi sinh các virus đường ruột thuộc họ Picornaviridae và được chia thành các nhóm: virus bại liệt, Coxsackievirus, Echovirus và một số Enterovirus khác. Trong bệnh Tay – Chân – Miệng các căn nguyên gây bệnh thường gặp nhất là Coxsackievirus A16, Enterovirus 71, ngoài ra còn có thể do Coxsackie 5, 10 và một vài loại virus đường ruột khác.

Enterovirus 71 (EV-71) nổi bật là một trong những tác nhân chính gây ra bệnh tay chân miệng (HFMD) và đôi khi gây biến chứng tại hệ thần kinh trung ương nghiêm trọng. EV71 được phân lập đầu tiên và được đặc trưng bởi các trường hợp bệnh thần kính ở California vào năm 1969.

Trong các vụ dịch, hai tác nhân Coxsackievirus A16, Enterovirus 71 thường cùng có mặt và gây dịch trong cộng đồng, tỉ lệ hai tác nhân liên quan đến độ nặng và biển chứng của bệnh. Các trường hợp nặng thường do EV71.

Virus được đào thải ra môi trường qua phân, sổ mũi, dịch hắt hơi. Ở ngoài môi trường sự tồn tại của virus có liên quan với một số điều kiện cụ thể:

  • Virus bị bất hoạt do nhiệt 56 độ C trong thời gian 30 phút, tia gamma, tia cực tím.
  • Virus chịu được độ pH với phổ rộng từ 3-9.
  • Bị bất hoạt bởi: 2% natri hyproclorite (nước Javel) và Chlorine tự do. Không hoặc rất ít bị bất hoạt do các chất hòa tan lipid như: Cồn, Phenol, Chloroform, Ether.
  • Ở nhiệt độ lạnh 40 độ C, virus sẽ sống được vài ba tuần.

Bệnh không liên quan với virus gây bệnh lở mồm long móng ở động vật (do virus khác).

2. DỊCH TỄ HỌC

Nguồn lây bệnh

Người là nguồn bệnh duy nhất, bệnh không lây từ người sang động vật. Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt dưới 3 tuổi. Các sinh hoạt tập thể như nhà trẻ, nhà mẫu giáo là các yếu tố góp phần giúp bệnh lan truyền nhanh, đặc biệt là trong các đợt dịch bùng phát. Dịch trong các nhà trẻ góp phần tăng số lượng mắc trong cộng đồng. Cho đến nay vẫn chưa có biện pháp cụ thể để đảm bảo chắc chắn giảm thiểu số trường hợp mắc mới nếu dịch bùng phát trong nhà trẻ, trường học.

Đường lây truyền

Bệnh lây truyền trực tiếp từ người sang người. Giai đoạn lây lan mạnh nhất là tuần đầu tiên bị bệnh.

Đường lây truyền chủ yếu là đường tiêu hoá, từ người mang bệnh thông qua:

  • Dịch tiết mũi họng, nước bọt, kể cả khi hắt hơi, họ cũng phát tán virus.
  • Phân của người bị bệnh.
  • Hoặc tiếp xúc với người bệnh khi bắt tay, dùng chung bát đũa.
  • Thậm chí là dịch nốt phỏng.

Virus phát tán ra môi trường 3 ngày trước khi có sốt (giai đoạn ủ bệnh) và 7 ngày sau khi sốt. Bệnh thường lây lan mạnh do trẻ không được huấn luyện đi ngoài hợp vệ sinh, thói quen mút tay, bò dưới sàn nhà và các vấn đề thực hành vệ sinh cá nhân (rửa tay thường xuyên) và vệ sinh chung.

Hình ảnh Bệnh Tay Chân Miệng
Hình ảnh Bệnh Tay Chân Miệng

Tuổi mắc bệnh

Tất cả mọi lứa tuổi đều có nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên, sau khi nhiễm virus không phải tất cả người nhiễm đều có biểu hiện bệnh.

Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt ở nhóm tuổi dưới 3 tuổi là những đối tượng dễ bị nhiễm bệnh và biểu hiện bệnh nhất vì chưa có kháng thể chống lại bệnh này. Nhiễm bệnh có thể tạo nên kháng thể đặc hiệu chống virus gây bệnh, tuy nhiên bệnh vẫn có thể tái diễn do một chủng virus khác gây nên.

Ở người trưởng thành phần lớn đã có kháng thể và miễn dịch do đã từng nhiễm các virus này. Tuy nhiên khi bị nhiễm bệnh, ở người trưởng thành tuy vẫn đào thải virus nhưng thường không có biểu hiện bệnh.

Do mức độ lưu hành rộng của các virus ruột, gồm cả các căn nguyên gây bệnh Tay – Chân – Miệng, nên phụ nữ có thai cũng có thể nhiễm bệnh. Nhiễm virus đường ruột trong thai kỳ thường gây nên bệnh nhẹ hoặc không triệu chứng. Chưa có dữ kiện chứng minh nhiễm virus đường ruột trong quá trình mang thai gây hậu quả lên thai nhi như sẩy thai, thai chết lưu hay dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên nếu thai phụ nhiễm bệnh trong một thời gian ngắn trước khi sinh có thể truyền virus cho trẻ sơ sinh. Đa số trẻ này chỉ biểu hiện bệnh nhẹ nhưng nếu bệnh xuất hiện trong hai tuần đầu sau sinh thường có nguy cơ rối loạn chức năng gan, phổi, não tỷ lệ tử vong cao.

Mùa

Các trường hợp đơn lẻ và bùng phát của bệnh tay chân miệng xảy ra trên toàn thế giới. Ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, các đợt bùng phát xảy ra quanh năm. Tại Việt Nam bệnh xuất hiện rải rác quanh năm, tại hầu hết các địa phương. Ở phía Nam, bệnh bùng phát vào hai thời điểm hàng năm là tháng 3 – 5 và tháng 9 – 12.

Tình hình bệnh Tay – Chân – Miệng trên thế giới và trong nước

Các virus đường ruột phân bố rộng rãi trên toàn cầu. Kể từ năm 1997 đã có nhiều vụ dịch Tay Chân Miệng đã được thông báo ở vùng châu Á Thái Bình Dương như Malaysia 1997, Đài Loan và Trung Quốc năm 1998, Australia 1999 và Singapore (2000) … Riêng tại Trung Quốc, EV71 đã gây thành nhiều vụ dịch lớn ở trẻ em và có một tỷ lệ nhỏ có biến chứng. Chỉ tính từ 01/01/2008 đến 09/05/08 đã có 61.459 trường hợp mắc và 36 trường hợp tử vong tại lục địa Trung Quốc. Riêng tại Fuyang thuộc tỉnh An Huy – Trung Quốc, tính đến 07/05/2008 đã có 4.496 trẻ mắc bệnh, trong đó có 1.391 trẻ phải nhập viện và 22 trường hợp tử vong. Vì vậy bệnh Tay Chân Miệng đã trở thành bệnh phải thông báo dịch tại Trung Quốc.

Tại các vùng có khí hậu nhiệt đới, bệnh thường xuất hiện vào mùa hè và đầu mùa thu. Tại khu vực có khí hậu lạnh, bệnh có xu hướng xảy ra vào mùa hè.

Nguy cơ mắc và tử vong giảm dần theo tuổi. Trong những trường hợp nặng, 80% có chảy máu phổi và viêm não và EV71 đã được xem là một vấn sức khoẻ cộng đồng.

Tại Việt Nam, số trường hợp Tay Chân Miệng đang có xu hướng gia tăng. Năm 2006 có 2.284 trường hợp, năm 2007 có 2.988 trường hợp và chỉ trong 4 tháng đầu năm 2008 đã có gần 3.000 trường hợp. Riêng tại phía Nam, trong 5 tháng đầu năm 2008 có 1.157 trường hợp mắc và 9 trường hợp tử vong. Bệnh tăng cao vào tháng 3 – 6 và tháng 9 – 12. Vì vậy bệnh Tay- Chân- Miệng đã trở thành bệnh phải thông báo tại Việt Nam.

3. LÂM SÀNG VÀ CÁC THẺ LÂM SÀNG

Giai đoạn ủ bệnh

Thường từ 3 đến 7 ngày, thường không có triệu chứng.

Giai đoạn khởi phát

Bệnh thường khởi phát với các triệu chứng như sốt nhẹ 37,5°C – 38°C, đi ngoài phân lỏng hoặc nát 1 – 3 lần trong ngày, không có máu, mũi. Trẻ thường quấy khóc, biếng ăn, kém linh hoạt. Ngoài ra đau họng cũng là dấu hiệu khởi phát thường gặp. Giải đoạn khởi phát kéo dài từ 1-2 ngày.

Giai đoạn toàn phát

Trẻ thường quấy khóc, khó ngủ, bỏ ăn. Hầu hết trẻ chỉ sốt nhẹ hoặc đã hết sốt. Những trẻ có sốt cao cần lưu ý nguy cơ biến chứng.

Biểu hiện nôn có thể kéo dài đến giai đoạn toàn phát. Nôn nhiều là một trong những yếu tố nguy cơ có biến chứng.
Ở giai đoạn này xuất hiện các triệu chứng điển hình của bệnh, với biểu hiện phát ban ở các vị trí đặc hiệu.

Loét miệng: tại vòm khẩu cái, niêm mạc má, lợi, lưỡi xuất hiện các chấm đỏ sau đó hình thành các phỏng nước đường kính 2 – 3 mm, khi phỏng nước vỡ để lại các vết loét chợt. Ngoài ra có thể thấy các ban dát đỏ ở quanh miệng, môi.

Phát ban dạng phỏng nước trên da

Hay gặp ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Kích thước khoảng 2 – 10 mm.

Ban có hình bầu dục hoặc hình tròn, nổi cộm trên mặt da, thường có màu trong, không đau. Một số ban sờ vào rất chắc.

Các trường hợp bệnh không điển hình thường chỉ có loét miệng, hoặc có hồng ban dát đỏ ở tay chân, đầu gối, mông.

Sau vài giờ đến 1 – 2 ngày ban tự vỡ, hoặc tự khô se lại và sau 2 – 3 ngày sẽ bong ra mà không để lại vết loét.

Giai đoạn phục hồi

Sau 7 – 10 ngày đa số người bệnh hồi phục hoàn toàn

Các thể lâm sàng

Thể tối cấp: Bệnh diễn tiến rất nhanh có các biến chứng nặng như suy tuần hoàn, suy hô hấp, hôn mê dẫn đến tử vong trong vòng 24-48 giờ.

Thể cấp tính với bốn giai đoạn điển hình như trên.

Thể không điển hình: Dấu hiệu phát ban không rõ ràng hoặc chỉ có loét miệng hoặc chỉ có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp mà không phát ban và loét miệng.

4. CÁC BIẾN CHỨNG

Trong giai đoạn toàn phát, một số trường hợp có thể có các biến chứng về thần kinh, hô hấp và tim mạch.

Các biến chứng thần kinh như viêm não, viêm màng não, viêm hành tủy với các biểu hiện

Rung giật cơ: Từng cơn ngắn 1-2 giây, ở tay và chân, xuất hiện khi bắt đầu giấc ngủ hay khi trẻ nằm ngửa.

Ngủ gà, bút rút, chới với, đi loạng choạng, run chi, mắt nhìn ngược. Rung giật nhãn cầu.

Yếu, liệt chi (liệt mềm cấp).

Liệt dây thần kinh sọ não.

Tăng trương lực cơ (biểu hiện duỗi cứng mất não, gồng cứng mất vỏ).
Nếu trẻ xuất hiện co giật, hôn mê là dấu hiệu nặng, thường đi kèm với suy hô hấp, tuần hoàn.

Các biến chứng về tim mạch.

Mạch nhanh > 150 lần/phút.

Thời gian đổ đầy mao mạch chậm trên 2 giây.

Da nổi vân tím, vã mồ hôi, chi lạnh. Các biểu hiện rối loạn vận mạch có thể chỉ khu trú ở 1 vùng cơ thể (1 tay, 1 chân…).

Giai đoạn đầu có huyết áp tăng (HA tâm thu: trẻ dưới 1 tuổi ≥ 100 mmHg, trẻ từ 1-2 tuổi > 110mmHg, trẻ trên 2 tuổi > 115mmHg), giai đoạn sau mạch, huyết áp không đo được.

Các biến chứng hô hấp như phù phổi cấp, suy hô hấp cấp, ngừng thở.

Suy hô hấp cấp: Thở nhanh, rút lõm ngực, khò khè, thở rít thì hít vào, thở nông, thở bụng, thở không đều.

Phù phổi cấp: Sùi bọt hồng, khó thở, tím tái, phổi nhiều ran ẩm, nội khí quản có máu hay bọt hồn.

Hình ảnh Bệnh Tay Chân Miệng
Hình ảnh Bệnh Tay Chân Miệng

5. CẬN LÂM SÀNG

Hầu hết các trường hợp Tay – Chân – Miệng bệnh thường diễn biến lành tính, các xét nghiệm được chỉ định gồm:

Các xét nghiệm cơ bản

Công thức máu: Bạch cầu thường trong giới hạn bình thường. Nếu bạch cầu tăng trên 15000/mm mà không có bằng chứng nhiễm vi khuẩn là dấu hiện tiên lượng nặng.

Protein C phản ứng (CRP) trong giới hạn bình thường (< 10mg/L) có giá trị phân biệt với nhiễm khuẩn. Đường huyết, điện giải đồ, X-quang phổi để phát hiện biến chứng. Nếu đường huyết tăng > 160mg% (8,9mmol/L) có nguy cơ biến chứng.

Các xét nghiệm theo dõi phát hiện biến chứng

Làm xét nghiệm khí máu khi có suy hô hấp: thở nhanh, rút lõm ngực hay SpO2 <92%.

Troponin I khi nhịp tim nhanh ≥ 150 lần/phút, nghi ngờ viêm cơ tim hoặc sốc.

Chọc dò dịch não tủy: Chỉ định khi có biến chứng thần kinh.

Tế bào dịch não tủy thường trong giới hạn bình thường hoặc bạch cầu tăng với tỉ lệ bạch cầu đơn nhân chiếm ưu thế. Trong giai đoạn sớm có thể tăng bạch cầu từ 100- 1000 bạch cầu/mm3, đa nhân chiếm ưu thế.

Protein tăng dưới 1g/1, Glucose bình thường.

Chụp cộng hưởng từ sọ não: để phát hiện tổn thương tại não.

Xét nghiệm phát hiện virus

Lấy bệnh phẩm hầu họng, phỏng nước, trực tràng, dịch não tuỷ làm xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập virus xác định căn nguyên

6. CHẨN ĐOÁN BỆNH

Chẩn đoán lâm sàng

Dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học

S – Yếu tố dịch tễ: Căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian.

Lâm sàng: Phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm sốt hoặc không.

Chẩn đoán xác định

Khi có kết quả xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có virus gây bệnh có giá trị chẩn đoán xác định.

Chẩn đoán phân biệt

Các bệnh có biểu hiện loét miệng: viêm loét miệng (áp-tơ) loét sâu, có dịch tiết, hay tái phát.

Các bệnh có phát ban da.

Sốt phát ban: hồng ban xen kẽ ít dạng sẩn, thường có hạch sau tai.

Dị ứng: hồng ban đa dạng, không có phỏng nước.

Viêm da mủ: đỏ, đau, có mủ.

Thuỷ đậu: phỏng nước nhiều lứa tuổi, rải rác toàn thân.

Nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu: mảng xuất huyết hoại tử trung tâm. Theon . Sốt xuất huyết Dengue: chấm xuất huyết, bầm máu, xuất huyết niêm mạc.

Viêm não-màng não.

Viêm màng não do vi khuẩn.

Viêm não-màng não do virus khác.

Phân độ lâm sàng

Có ý nghĩa để tiên lượng bệnh

Độ 1: chỉ loét miệng và/hoặc tổn thương da.

Độ 2: được chia 2 mức

Độ 2a: có một trong các dấu hiệu sau:

Bệnh sử có giật mình dưới 2 lần/30 phút (không ghi được nhận lúc khám).

Sốt trên 2 ngày, hoặc sốt trên 39°C, nôn, lừ đừ, quấy khóc vô cớ.

Độ 2b: có dấu hiệu thuộc nhóm 1 hoặc nhóm 2:

Nhóm 1: Có một trong các biểu hiện sau:

Bệnh sử có giật mình ≥ 2 lần/30phút, hoặc giật mình ghi nhận lúc khám.

Bệnh sử có giật mình kèm theo một dấu hiệu sau:

Ngủ gà.

Mạch nhanh > 130 lần/phút (khi nằm yên, không sốt).

Nhóm 2: Có một trong các biểu hiện sau

Sốt cao > 39,5°C (đo hậu môn) và không đáp ứng với thuốc hạ sốt. Mạch nhanh > 150 lần/phút (khi nằm yên, không sốt).

Thất điều: run chi, run người, ngồi không vững, đi loạng choạng.

Rung giật nhãn cầu, lác mắt.

Yếu chi hoặc liệt chi.

Liệt thần kinh sọ: nuốt sặc, khàn hoặc mất tiếng

Độ 3: có các dấu hiệu sau:

Vã mồ hôi lạnh toàn thân hoặc khu trú.

Mạch nhanh >170 lần/phút khi nằm yên, không sốt hoặc mạch chậm so với lứa tuổi. HA tâm thu tăng: dưới 12 tháng HA > 100mmHg; từ 12 -24 tháng HA >110 mmHg; trên 24 tháng HA > 115 mmHg.

Thở nhanh, thở bất thường, cơn ngưng thở, thở bụng, thở nông, rút lõm ngực, có tiếng thở rít thì hít vào.

Rối loạn tri giác (Glasgow < 10 điểm).

Tăng trương lực cơ.

Độ 4: có một trong các dấu hiệu nặng, như sốc, phù phổi cấp, tím tái, SpO <92% và thở nấc, ngừng thở.

7. ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị

Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị hỗ trợ.

Theo dõi sát, phát hiện sớm và điều trị biến chứng.

Bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ, nâng cao thể trạng.

Điều trị cụ thể

Độ 1: điều trị ngoại trú và theo dõi tại y tế cơ sở.

Dinh dưỡng đầy đủ theo tuổi. Trẻ còn bú cần tiếp tục bú mẹ.

Sốt cao hạ sốt khi bằng Paracetamol 10 mg/kg/lần (uống) mỗi 6 giờ, hoặc chườm ấm.

Vệ sinh răng miệng.Nghỉ ngơi, tránh kích thích.
Tái khám 1-2 ngày/lần, cho đến khi hết sốt ít nhất 48 giờ.

Cần tái khám ngay khi có dấu hiệu từ độ2a trở lên, gồm:

Sốt cao > 39°C.

Thở nhanh, khó thở.

Giật mình, lừ đừ, run chi, quấy khóc, bứt rứt khó ngủ, nôn nhiều.

Đi loạng choạng.

Da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay chân lạnh.

Co giật, hôn mê.

Chỉ định nhập viện khi:

Sốt cao 39°C hoặc nôn nhiều.

Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp.

Nhà xa: không có khả năng theo dõi, tái khám.

Độ 2: Điều trị nội trú tại bệnh viện

Đối với độ 2a điều trị như độ 1.

Nếu sốt cao không đáp ứng Paracetamol thay thế bằng ibuprofen 5. 10mg/kg/lần, liều tối đa là 40mg/kg/ngày.

An thần: Phenobarbital 5-7mg/k g/ngày, uống. Theo dõi sát để phát hiện dấu hiệu chuyển độ.

Đối với độ 2b: Điều trị tại phòng cấp cứu, hồi sức

Hạ sốt, nằm đầu cao góc 30 độ, thở oxy 3-6 lít/phút.

Phenobarbital 10-20mg/kg truyền tĩnh mạch, nhắc lại sau 8-12 giờ/lần

Immunoglobulin: chỉ định khi có dấu hiệu của nhóm 2 (hoặc ở nhóm 1 nhưng điều trị bằng Phenobarbital không thuyên giảm). Liều 1g/kg/ngày, truyền 6 – 8 giờ. Nhắc lại liều 2 sau 24 giờ nếu các triệu chứng không thuyên giảm.

Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, độ bão hòa oxy SpO, 1- 3 giờ/lần trong 6 giờ đầu, sau đó 4-5 giờ/lần.

Độ 3: điều trị tại đơn vị hồi sức

Hạ sốt, thở oxy 3-6 lít/phút, nếu đáp ứng kém nên đặt nội khí quản.

Phenobarbital 10-20mg/kg truyền tĩnh mạch. Liều tối đa: 30mg/kg/24giờ.

Immunoglobulin (Gammaglobulin): 1g/kg/ngày truyền tĩnh mạch trong 6-8 giờ, dùng trong 2 ngày liên tục.

Chống phù não: nằm đầu cao góc 30 độ, hạn chế dịch (tổng dịch bằng 1/2-3/4 nhu cầu), thở máy tăng thông khí PaCO, 30-35mmHg; PaO290-100mmHg.

Chỉ định Dobutamin khi mạch > 170 lần/phút: liều khởi đầu 5ug/kg/phút truyền tĩnh mạch, tăng dần 1-2,5ug/kg/phút mỗi 15 phút cho đến khi cải thiện lâm sàng; liều tối đa 20ug/kg/phút (không dùng Dopamin).

Chỉ định Milrinone khi huyết áp cao: truyền tĩnh mạch liều 0,4–0,75ug/kg/phút, trong 24-72giờ. Nếu huyết áp ổn định trong 12-24 giờ, giảm liều milrinone 0,1kg/kg/phút mỗi 30-60 phút cho đến liều tối thiểu 0,25ug/kg/phút. Nếu huyết áp tiếp tục ổn định trong 6 giờ xem xét ngừng milrinone.

Điều chỉnh rối loạn nước, điện giải, toan kiềm, điều trị hạ đường huyết.

Điều trị co giật: Midazolam 0,15mg/kg/lần, hoặc Diazepam 0,2-0,3mg/kg truyền tĩnh mạch, lập lại sau 10 phút nếu còn co giật (tối đa 3 lần).

Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, SpO2: 1- 2giờ/lần. Nếu có điều kiện nên theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn.

Độ 4: Điều trị tại các đơn vị hồi sức

Đặt nội khí quản, thở máy tăng thông khí PaCO, 30-35mmHg; PaO2 90- 100mmHg.

Chống sốc (do viêm cơ tim hoặc tổn thương trung tâm vận mạch thân não).

Nếu không có dấu hiệu của phù phổi, suy tim: Truyền Natriclorua 0,9% hoặc Ringerlactat: 5ml/kg/15phút, điều chỉnh tốc độ theo áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) và đáp ứng lâm sàng. Nếu không có CVP cần theo dõi dấu hiệu quá tải, phù phổi cấp.

Dobutamin liều khởi đầu 5ug/kg/phút, tăng dần 2- 3ug/kg/phút mỗi 15 phút cho đến khi có hiệu quả, liều tối đa 20 ug/kg/phút.

Nếu phù phổi cấp: Ngừng truyền dịch, dùng Dobutamin liều 5-20ug/kg/phút,

Furosemidel-2mg/kg/lần tiêm tĩnh mạch.

Điều chỉnh nước, điện giải, thăng bằng kiềm toan và đường máu.

Immunoglobulin: khi huyết áp trung bình ≥ 50mmHg.

Dùng kháng sinh khi có bội nhiễm.

Lọc máu liên tục hoặc chạy ECMO nếu có điều kiện.

Theo dõi: CVP mỗi giờ/lần và mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tri giác, ran phổi, SpO2, nước tiểu 30 phút/lần trong 6 giờ đầu, sau đó điều chỉnh theo đáp ứng lâm sàng. Nếu có điều kiện nên theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn.

Tiêu chuẩn xuất viện

Nếu có biến chứng nặng (độ 3,4): xuất viện khi các biến chứng, di chứng và lâm sàng đã ổn định

Đối với các trường hợp khác xuất viện khi có đủ 4 tiêu chuẩn sau:

Hết sốt ít nhất 24 giờ liên tục.

Không còn các biểu hiện lâm sàng từ độ 2a trở lên ít nhất trong 48 giờ.

Có điều kiện theo dõi tại nhà và tái khám ngay nếu có diễn biến nặng

Các di chứng (nếu có) đã ổn định, ăn được qua đường miệng.

8. PHÒNG BỆNH

Nguyên tắc chung

Hiện chưa có vaccin phòng bệnh đặc hiệu.

Áp dụng các biện pháp phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa đối với bệnh lây qua đường tiêu hoá, đặc biệt khi tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây.

Phòng bệnh tại các cơ sở y tế

Cách ly theo nhóm bệnh.

Nhân viên y tế: Thực hiện đeo khẩu trang, rửa tay, sát khuẩn khi chăm sóc.

Khử khuẩn bề mặt, giường bệnh, buồng bệnh bằng Cloramin B 2%. Lưu ý khử khuẩn các ghế ngồi của người bệnh và thân nhân tại khu khám bệnh.

Xử lý chất thải, quần áo, khăn trải giường của người bệnh và dụng cụ chăm sóc sử dụng lại theo quy trình phòng bệnh lây qua đường tiêu hoá.

Phòng bệnh ở cộng đồng

Vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng (đặc biệt sau khi thay quần áo, tã, sau khi tiếp xúc với phân, nước bọt).

Rửa sạch đồ chơi, vật dụng, sàn nhà.

Lau sàn nhà bằng dung dịch khử khuẩn Cloramin B 2%.

Cách ly trẻ tại nhà, không đến nhà trẻ, trường học trong tuần đầu của bệnh.