Xem thêmPhần thường được sử dụng là cụm hoa và quả phơi hay sấy khô
(Flos Brunellae cum Fructu) của cây hạ khô thảo. Có người dùng cả bộ phận trên
mặt đất (tháo) hái về phơi hay sấy khô để dùng. Vào mùa hạ, khi một số quả đã
chín thì hái cành mang hoa và quả sấy khô hay phơi khô.
Thành phần hóa học Cây hạ khô thảo:
Theo một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thành phần hóa học có
trong cây hạ khô thảo bao gồm những thành phần chính như: alcaloid tan trong nước,
3,5% muối vô cơ, tinh dầu. Trong các muối vô cơ có chủ yếu là kali chlorua.
Tinh dầu chứa d-camphor (khoảng 50%) a- và D-fenchon, vết của alcol fenchylic.
Chất đắng là prunellin (trong đó phần không đường là acid ursolic; còn có denphinidin
cyanidin. Ở Pháp, người ta đã xác định trong cây có nhựa chất đắng, tanin, tinh
dầu, chất béo, lipase, một glucosid tan trong nước (0,70g/kg cây khô) và một
saponosid acid.
Những nghiên cứu khoa học về cây hạ khô thảo:
Theo Cửu Bảo, Điền Tinh Quang và Đào Thanh Cát (1940, Hòa
hán dược dụng thực vật) đã thí nghiệm lấy các muối vô cơ trong nước sắc hạ khô
thảo, chế thành thuốc tiêm, tiêm tĩnh mạch thỏ, lập tức thấy huyết áp hạ xuống,
vận động hô hấp tăng lên, tác dụng lợi tiểu rõ rệt như các muối kali khác, do
đó suy ra rằng sở dĩ hạ khô thảo có các dụng là do lượng muối kali khá cao. Hạ
khô thảo có tác dụng hạ huyết áp lâu dài trên bệnh nhân và làm hết các triệu chứng
khó chịu của bệnh cao huyết áp.
Một số nghiên cứu chỉ ra, thuốc sắc, dịch ngâm nước hạ khô
thảo đều có tác dụng giảm thấp huyết áp động vật thực nghiệm rõ rệt. Thân, lá,
bông và toàn cây đều có tác dụng giáng áp, nhưng tác dụng của bông rõ hơn. Tiêm
vào xoang bụng chuột con dịch lắng cồn sắc nước hạ khô thảo có tác dụng chống
viêm rõ rệt.
Thuốc sắc cũng có tác dụng ức chế trực khuẩn lỵ, trực khuẩn
thương hàn, trực khuẩn đại tràng, trực khuẩn biến dạng, khuẩn cầu chùm và trực
khuẩn lao thể người.
Theo trung dược học Tiêm dịch từ hạ khô hảo vào xoang bụng
chuột con nhận thấy tác dụng chống viêm rõ rệt.
Cây hạ khô thảo Theo đông y:
Hạ khô thảo có vị đắng, cay, tính hàn, không độc, quy vào 2 kinh can, đởm. Tác dụng giúp can hỏa, tán uất kết, tiêu ứ sáng mắt, làm thuốc chữa loa dịch, giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ.
Công dụng của hạ khô thảo:
- Giải trừ, tiêu độc, thanh nhiệt.
- Hỗ trợ làm sáng mắt, giúp thông tiểu tiện, kháng khuẩn và phòng chống ung thư.
- Hỗ trợ trị sưng đau, nhức đầu, chóng mặt.
- Hỗ trợ trị bướu cổ, tràng nhạc, tuyến vú tăng sinh.
- Hỗ trợ trị nhọt vú sưng đau, huyết áp cao.
- Hỗ trợ giải trừ nhiệt độc ở tử cung và âm hộ.
- Hỗ trợ trị lở loét, tràng nhạc, mụn nhọt, dò ở trên đầu.
Một số bài thuốc từ cây hạ khô thảo:
Chữa xích bạch đới:
Hạ khô thảo tán nhỏ, mỗi lần uống 8g với nước cơm (sách Từ
Thị Phương).
Chữa tràng nhác:
Sử dụng (loa lịch) hạ khô thảo 8g, cam thảo 2g, nước 3 bát
(600ml) sắc còn 200ml chia ba lần uống trong ngày.
Thông tiểu tiện:
Hạ khô thảo 8g, hương phụ tử 2g, cam thảo 1g, nước 600ml, sắc
còn 200ml chia làm 3 lần uống trong ngày.
Bị đánh hay bị thương:
Dùng hạ khô thảo tươi tán nhỏ đắp vào vết thương. Có thể
dùng chữa bệnh cao huyết áp với liều 5-15g dưới dạng thuốc sắc.
Chữa tràng nhạc mã đao:
Hạ khô thảo 5 lạng (200g) đun lấy nước đặc uống, uống trước
khi ăn cơm 2 giờ (Bài thuốc trích trong sách “Tiếp thị ngoại khoa – Bản thảo
cương mục”). Cũng bệnh trên có thể dùng hạ khô thảo, hương phụ, bối mẫu,
viễn chí đun lấy nước đặc uống rất hay, không nên coi thường (sách kinh nghiệm
phương – bản thảo cương mục).
Lưu ý sử dụng Cây hạ khô thảo:
Những thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo, tuyệt đối
không tự ý bốc thuốc theo thang hướng dẫn. Để biết thêm thông tin cụ thể vui
lòng tham khảo ý kiến của thầy thuốc trước khi sử dụng.Cẩn
thận khi sử dụng cho người tỳ vị hư yếu.