Giá liên hệ
Xuất xứ | Úc |
Quy cách | Hộp 1 lọ 5ml |
Thương hiệu | Ebewe |
Chuyên mục | Ung thư |
Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml được cấp phép bởi Cục quản lý Dược – Bộ Y tế, được bào chế dưới dạng dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền với công dụng điều trị các bệnh ung thư như ung thư buồng trứng, ung thư vú, ung thư phổi và u sarcom Kaposi.
Nội dung chính
Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml thuộc nhóm thuốc chất độc tế bào, là thuốc mới chống vi ống, tập hợp được các vi ống từ ống nhị phân tử và ổn định các vi ống do ức chế quá trình giải trùng hợp. Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền, dùng theo đường tiêm truyền, thích hợp sử dụng cho người lớn.
Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml được chỉ định điều trị
Sản phẩm đã được Cục Dược – Bộ Y tế cấp phép dưới dạng thuốc kê đơn, chỉ bán theo đơn của bác sỹ. Nếu cần thêm thông tin, xin hỏi ý kiến bác sĩ. Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng. Để xa tầm tay trẻ em.
Mỗi lọ dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml có chứa những thành phần chính như là:
Paclitaxel 6mg
Tá dược vừa đủ 5ml
(Dầu thầu dầu dẫn polyoxyl và ethanol khan).
Thuốc Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml cần phải sử dụng theo chỉ định của bác sĩ, không được tự ý sử dụng.
Dưới đây là liều lượng tham khảo. Liều dùng cụ thể tùy thuộc vào thể trạng và mức độ diễn tiến của bệnh.
Thuốc dùng đường tiêm truyền.
Trước khi điều trị paclitaxel, tất cả các bệnh nhân phải dùng trước các thuốc corticosteroid, kháng histamin, và thuốc đối kháng H2,…
Thuốc | Liều dùng | Cách dùng trước khi dùng paclitaxel |
Dexamethason | 20mg uống* hoặc truyền tĩnh mạch | Dùng theo đường uống: xấp xỉ 12 và 6 hoặc IV: 30 đến 60 phút. |
Diphenhydramin** | 50mg tiêm tĩnh mạch | 30 đến 60 phút |
Cimetidine hoặc ranitidin | 300mg truyền tĩnh mạch
50mg truyền tĩnh mạch |
30 đến 60 phút |
*8-20 mg cho bệnh nhân KS
**hoặc một thuốc kháng histamin tương tự như chlorpheniramin
Paclitaxel nên được truyền qua thiết bị lọc có màng vi ống đường kính < 0,22 µm (xem mục Hướng dẫn và thao tác sử dụng thuốc).
Hóa trị ban đầu cho ung thu buồng trứng: Chế độ liều phối hợp paclitaxel và cisplatin được khuyến cáo sử dụng. Theo khoảng thời gian truyền tĩnh mạch, có 2 mức liều paclitaxel được khuyến cáo: paclitaxel 175 mg/m? tiêm truyền trong 3 giờ, tiếp theo đó là cisplatin 75 mg/m2 3 tuần 1 lần hoặc paclitaxel 135 mg/m2 tiêm truyền 24 giờ, tiếp theo dó cisplatin 75 mg/m2 điều trị cách quãng 3 tuần giữa 2 đợt (xem mục Đặc tính dược lực học). Các cách phối hợp khác còn đang nghiên cứu.
Hóa trị thứ hai cho ung thư buồng trứng:
Liều khuyến cáo của paclitaxel là 175 mg/m2 dùng trong 3 giờ, có thời gian cách quãng 3 tuần giữa 2 đợt.
Điều trị hỗ trợ trong ung thư vú: Liều khuyến cáo của paclitaxel là 175mg/m2 dùng trong 3 giờ, 3 tuần 1 đợt trong 4 đợt sau khi điều trị AC.
Hóa trị ban đầu cho ung thư vú:
Khi sử dụng phối hợp với doxorubicin (50mg/m2), paclitaxel được chỉ định điều trị 24 giờ sau khi dùng doxorubicin. Liều khuyến cáo của paclitaxel là 220 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, cách quãng 3 tuần giữa các đợt (xem mục Tương tác thuốc và các tương tác khác và mục Đặc tính dược lực học).
Khi dùng phối hợp với trastuzumab, liều khuyến cáo của paclitaxel là 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, cách quãng 3 tuần giữa các đợt (xem mục Đặc tính dược lực học). Truyền tĩnh mạch paclitaxel có thể bắt đầu từ ngày sau khi dùng trastuzumab liều đầu hoặc ngay sau khi dùng các liều tiếp theo của trastuzumab nếu như liều trước đó của trastuzumab dược dung nạp tốt (để biết liều dùng cụ thể của trastuzumab xem tóm tắt đặc tính của Herceptin).
Hóa trị thứ hai của ung thư vú:
Liều khuyến cáo của paclitaxel là 175 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ với khoảng cách 3 tuần giữa các đợt.
Điều trị NSCLC tiến triển: Paclitaxel 175 mg/m2 dùng trong 3 giờ, tiếp theo là cisplatin 80 mg/m2; có thời gian cách quãng 3 tuần lễ giữa 2 đợt.
Điều trị sarcom Kaposi liên quan đến AIDS:
Liều khuyến cáo của paclitaxel là 100 mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, 2 tuần 1 lần.
Các liều kế tiếp của paclitaxel nên được chỉ định theo khả năng dung nạp thuốc của các cá nhân. Paclitaxel không nên chỉ định lại cho đến khi lượng bạch cầu trung tính ≥ 1500/mm3 (≥ 1000/mm3 cho bệnh nhân KS) và lượng tiểu cầu ≥ 100000/mm3 (≥ 75000/mm3 cho bệnh nhân KS). Bệnh nhân đã bị giảm bạch cầu trung tính nặng (lượng bạch cầu trung tính < 500/mm2 trong 27 ngày) hoặc bệnh nhân bị thần kinh ngoại vi nặng nên được giảm liều xuống 20% cho các đợt điều trị tiếp theo (25% cho bệnh nhân KS) (xem mục Những lưu ý đặc biệt và cảnh báo khi sử dụng thuốc).
Bệnh nhân suy gan: Chưa có số liệu thỏa đáng về sự thay đổi chế độ liều ở bệnh nhân suy gan mức độ nhẹ đến trung bình (xem mục Những lưu ý đặc biệt và cảnh báo khi sử dụng thuốc và mục Đặc tính dược động học). Bệnh nhân bị suy gan nặng không nên điều trị tiếp với paclitaxel.
Để tránh gặp phải những phản ứng phụ không mong muốn thì những đối tượng không nên sử dụng:
Chống chỉ định paclitaxel ở bệnh nhân có tiền sử các phản ứng quá mẫn cảm nghiêm trọng với paclitaxel hoặc với các thành phần khác của chế phẩm, đặc biệt với dầu thầu dầu polyoxyl (xem mục Những lưu ý đặc biệt và cảnh báo khi sử dụng thuốc).
Paclitaxel chống chỉ định cho phụ nữ có thai và cho con bú (xem mục Phụ nữ mang thai và cho con bú) và không dùng paclitaxel ở người có lượng bạch cầu đa nhân trung tính ở mức cơ bản < 1500/mm3 (<1000/mm3 cho bệnh nhân KS).
Paclitaxel cũng bị chống chỉ định cho bệnh nhân KS bị nhiễm khuẩn nặng, không kiểm soát được.
Trong quá trình sử dụng Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml, quý vị cần thận trọng với những trường hợp sau:
Paclitaxel chỉ được sử dụng dưới sự giám sát chặt che của thầy thuốc chuyên khoa có kinh nghiệm về hóa học liệu pháp chống ung thư. Do có thể gặp các phản ứng quả mẫn cho nên cần có các thiết bị hỗ trợ thích hợp.
Trước khi dùng paclitaxel, cần phải dùng trước cho bệnh nhân các thuốc corticoid, kháng histamin H1, thuốc đối kháng H2 (xem mục Liều lượng và cách dùng), khi phối hợp với cisplatin, phải dùng paclitaxel trước cisplatin (xem mục Tương tác thuốc và các tương tác khác).
Các phản ứng quá mẫn rõ rệt có đặc điểm khó thở, hạ huyết áp thì cần phải diều trị, có thế phù mạch và mày đay lan toa, thường gặp ở <1% bệnh nhân dùng paclitaxel sau khi đã dùng trước đó các thuốc thích hợp. Các phản ứng này có thể do trung gian histamin. Nếu gặp các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng cần ngưng truyền paclitaxel ngay lập tức, bắt đầu điều trị triệu chứng và bệnh nhân không nên dùng các loại thuốc nữa.
Suy tủy xương (trước hết là giảm bạch cầu trung tính) có độc tính tùy thuộc liều lượng. Trong thời gian truyền paclitaxel, cần luôn luôn theo dõi công thức máu. Bệnh nhân không được dùng lại thuốc cho đến khi bạch cầu trung tinh đạt mức 21500/mm3 (≥ 1000/mm3 cho bệnh nhân KS) và tiểu cầu đạt mức ≥ 100000/mm (2 75000/mm2 cho bệnh nhân KS). Trong nghiên cứu lâm sàng KS, phần lớn các bệnh nhân sử dụng yếu tố kích thích tăng sinh dòng bạch cầu hạt nội sinh (G- CSF).
Bất thường nghiêm trọng về dẫn truyền tim hiếm gặp trong đơn trị liệu paclitaxel, nhưng nếu bệnh nhân bị bất thường rõ rệt về dẫn truyền tim trong thời kỳ dùng paclitaxel cần có biện pháp điều trị thích hợp và luôn luôn theo dõi tim khi tiếp tục dùng paclitaxel. Khi dùng paclitaxel, có gặp hạ huyết áp hoặc täng huyết áp, nhịp tim chậm, thường bệnh nhân không có triệu chứng và thường không cần điều trị. Cần theo dõi thường xuyên dấu hiệu sống, đặc biệt nghiêm trọng giờ đầu khi truyền paclitaxel. Các hiện tượng nghiêm trong về tim mạch hay gặp hơn ở bệnh nhân NSCLC là với bệnh nhân ung thư biểu mô vú hoặc buồng trứng. Một trường hop suy tim có liên quan tới paclitaxel được phát hiện trong một nghiên cứu lâm sàng về AlIDS-KS.
Khi sử dụng phối hợp paclitaxel với doxorubicin hoặc trastuzumab trong hóa trị ban đầu ung thư vú di căn, nên chú ý theo dõi chức năng tim. Khi bệnh nhân được chi dịnh điều trị paclitaxel trong những phối hợp thuốc này, họ cần phải đưoc dánh giá về tim mạch về cơ bản bao gồm tiền sử, thăm khám lâm sàng, ECG, siêu âm tim và/hoặc scan MUGA. Chức năng tim nên được theo dõi chặt chẽ hơn trong suốt quá trình điều trị (ví dụ 3 tháng 1 lần). Việc giám sát có thể giúp nhận biết bệnh nhân bị rối loạn chức năng tim và bác sĩ điều trị nên có đánh giá kĩ lưỡng về liều tích lũy của anthracyclin diều trị (mg/m2) khi đưa ra quyết định về tẩn suất đánh giá chức năng tâm thất. Cần đánh giá về sự suy giảm chức năng tim, ngay cả khi không có triệu chứng, các bác sĩ điều trị nên đánh giá cẩn thận lợi ích lâm sàng của các liệu pháp điều trị hơn là khả năng gây ra tổn thương trên tim mạch bao gồm cả những tổn thương có thể không phục hồi lại được. Nếu có thêm các liệu pháp điều trị, việc kiểm soát chức năng tim nên đưoc tiến hành thường xuyên hơn (ví dụ sau mỗi 1-2 đot điều trị). Để biết thêm thông tin, để nghị xem Tóm tắt dặc tính sản phẩm của Herceptin hoặc doxorubicin.
Mặc dầu hay gặp bệnh thần kinh ngoại biên, nhưng ít gặp các triệu chứng nghiêm trong. Trong một số trường hợp nặng, khuyến cáo giảm 20% liều lượng (25% cho bệnh nhân KS) trong tất cả những lần dùng tiếp theo của paclitaxel. Với bệnh nhân NSCLC và bệnh nhân ưng thư buồng trứng được điều trị ban dầu, việc phối hợp truyền tĩnh mạch paclitaxel trong 3 giờ với cisplatin se làm tăng tỷ lệ độc tính nặng với thần kinh khi so với dùng doơn doc paclitaxel và điều trị cyclophosphamid sau khi dùng cisplatin.
Bệnh nhân suy gan có thể có nguy cơ gặp độc tính cao hơn, đặc biệt là suy tủy mức độ 3-4. Không có bằng chứng cho thấy độc tính của paclitaxel tăng lên khi tiêm truyền trong 3 giờ cho bệnh nhân có rối loạn chức năng gan nhẹ. Khi paclitaxel đưoc truyền tĩnh mạch lâu hơn, hiện tượng suy tủy nặng hơn có thể thấy ở bệnh nhân suy gan mức độ vừa đến nặng. Cần phải kiểm soát chặt chẽ sự phát triển của suy tủy nặng (xem mục Liều lượng và cách dùng). Không có dữ liệu về khuyến cáo thay đổi liều ở bệnh nhân suy gan mức độ vừa đến nặng (xem mục Đặc tính dược động học).
Không có dữ liệu về bệnh nhân bị ứ mật nặng. Bệnh nhân suy gan nặng không nên dùng paclitaxel.
Do paclitaxel chửa cthanol cho nên có thể gặp các tác dụng trên thần kinh trung ương và các tác dụng khác.
Đặc biệt cẩn trọng để tránh tiêm paclitaxel vào động mạch vì trong các nghiên cứu trên động vật về sự dung nạp thuốc cục bộ, các phản ứng mô nặng được nhận thấy sau khi tiêm vào động mạch.
Viêm kết mạc màng giả hiếm gặp bao gồm các trường hợp bệnh nhân không được điều trị phối hợp với kháng sinh. Phản ứng này nên được xem xét trong khi chấn đoán phân biệt các trường hợp tiêu chảy nặng hoặc kéo dài xảy ra trong suốt quá trình hoặc một thời gian ngắn điều trị bằng paclitaxel.
Paclitaxel phối hợp với chiếu xạ phổi, không kể trình tự thời gian, có thể góp phần vào sự phát triển của viêm phổi kẽ.
Ở bệnh nhân KS hiểm gặp viêm niêm mạc nặng. Nếu các phản ứng nghiêm trọng xảy ra, liều của paclitaxel nên giảm xuống 25%.
Phụ nữ có thai:
Paclitaxel dược chỉ ra là gây độc cho phôi thai và gây quái thai ở thỏ, và gây giảm khả năng sinh sản ở chuột. Không có thông tin về sử dụng paclitaxel ở người mang thai. Cũng như với mọi thuốc độc với tế bào, paclitaxel có thể gây hại cho thai và vì thế chống chỉ định trong quá trình mang thai trừ khi thật cần thiết. Phụ nữ nên tránh mang thai khi dang dùng paclitaxel và cần phải thông báo cho bác sĩ điều trị ngay khi mang thai. Bệnh nhân nam và nữ trong độ tuổi sinh đẻ và/hoặc đối tác của họ nên sử dụng biện pháp tránh thai ít nhất 6 tháng sau khi điều trị với paclitaxel. Bệnh nhân nam nên tìm tư vấn về việc dự trữ tinh trùng trước khi điều trị với paclitaxel vì khả năng vô sinh. Chưa rõ paclitaxel có bài tiết qua sữa mẹ hay không vì vậy, chống chi định thuốc này cho người mẹ cho con bú phải ngừng cho con bú suốt thời kỳ mà mẹ dùng thuốc này.
Chưa có chứng minh về ảnh hưởng của paclitaxel tới khả năng này. Tuy nhiên, nên chú ý rằng paclitaxel có chứa alcohol
Độ thanh thải của paclitaxel không bị ảnh hưởng khi dùng cimetidin trước đó.
Chế độ liều khuyến cáo của paclitaxel trong hóa trị liệu ban đầu cho ung thư buồng trứng là cho paclitaxel dùng trước cisplatin. Khi paclitaxel được dùng trước cisplatin, đặc tính an toàn của paclitaxel tương đương với tính an toàn khi dùng paclitaxel đơn độc. Khi paclitaxel được dùng sau cisplatin, nhận thấy bệnh nhân bị suy tủy nặng hơn và giảm gần 20% độ thanh thải. Bệnh nhân điều trị bằng paclitaxel và cisplatin có thể có nguy cơ bị suy thận cao hơn so với dùng cisplatin đơn độc trong các ung thư phụ khoa.
Do hoạt động thải trừ của doxorubicin và các chất chuyển hóa có hoạt tính của nó có thể bị giảm khi paclitaxel và doxorubicin được điều trị trong thời gian gần nhau, do đó paclitaxel dùng trong hóa trị ban đầu cho ung thư vú di căn nên được dùng 24 giờ sau khi dùng doxorubicin (xem mục Đặc tính dược động học).
Chuyển hóa của paclitaxel được xúc tác một phần qua cytocrom P450 (isoenzym CYP2C& và 3A:) (xin đọc mục Đặc tính dược dộng học). Nghiên cứu lâm sàng chứmg minh rằng paclitaxel chuyển hóa thông qua CYP2C8 tạo thành 6- a- hydroxypaclitaxel, là con đưong chuyển hóa chính paclitaxel ở người. Khi dùng phối hợp với ketocorazol, cũng là một chất chuyển hóa thông qua CYP3A4, nó không ức chế sự đào thải của paclitaxel ở bệnh nhân, vì vậy có thể dùng chung 2 thuốc này mà không cần điều chỉnh liều. Còn thiếu dữ liệu về hiệu lực của tương tác thuốc giữa paclitaxel với các cơ chất khác hoặc với các chất ức chế CYP3A4. Vì vậy cần thận trọng khi dùng paclitaxel cùng các cơ chất hoặc các chất ức chế của CYP2C8 hoặc 3A4 quen thuộc (như erythromycin, fluoxetin, gemfibrozil) hoặc cảm ứng (như rifampicin, carbamazepin, phenytoin, phenobarbital, efavirenz, nevirapin).
Các nghiên cứu trên bệnh nhân KS dùng rất nhiều thuốc cùng một lúc gợi ý rằng độ thanh thải toàn bộ của paclitaxel thấp hơn rõ rệt khi có mặt nelfinavir và ritonavir, nhưng không phải với indinavir. Không có thông tin đầy đủ về tương tác với các chất ức chế protease khác. Vì vậy, paclitaxel nên được chi định cẩn trọng ở bệnh nhân điều trị đồng thời với các thuốc ức chế protease.
Do không có các nghiên cứu về tính tương kỵ của thuốc, không trộn lẫn thuốc này với thuốc khác.
Trong quá trình sử dụng Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml thì có thể sẽ gặp 1 số phản ứng phụ không mong muốn như sau:
Trừ trường hợp có lưu ý, những bàn luận sau đây đề cập đến cơ sở dữ liệu về độ an toàn chung của khoảng 800 bệnh nhân có khối u rắn điều trị paclitaxel đơn trị liệu trong các nghiên cứu lâm sàng. Vì nhóm bệnh nhân KS rất đặc biệt cho nên một phần riêng dựa trên 100 bệnh nhân nghiên cứu được đưa ra cuối mục này.
Tần suất và mức độ nặng của các tác dụng không mong muôn nhìn chung là tương tự giữa các bệnh nhân dùng paclitaxel cho diều trị bệnh nhân ung thư buồng trứng, ung thu vú, hoặc NSCLC. Không có liên quan giữa tuổi tác và độ nặng của tác dụng phụ.
Tác dụng phụ thường gặp nhất là suy tủy xương. Hiện tượng giảm bạch cầu trung tính nặng (<500 tế bào/mm3) xuất hiện ở 28% bệnh nhân, nhưng không liên quan đến triệu chứng sốt thành đot. Chi 1% số bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính nặng ≥ 7 ngày. Giảm tiểu cầu xuất hiện trên 11% bệnh nhân. 3% bệnh nhân có số tiểu cầu thấp nhất < 50000/mm3 ít nhất 1 lần trong nghiên cứu. Thiếu máu xuất hiện trên 64% bệnh nhân nhưng mức độ nặng (Hb < 5mmol/l) chỉ có trên 6% bệnh nhân. Tỉ lệ mắc và mức độ thiếu máu có liên quan đến tình trạng hemoglobin cơ bản.
Độc tính thần kinh, chủ yếu là bệnh thần kinh ngoại vi, có vẻ thường gặp và nặng hơn khi tiêm truyền paclitaxel trong 3 giờ (85% độc thần kinh, 15% nặng) so với truyền tĩnh mạch 135mg/m2 trong 24 giờ (25% bị bệnh thần kinh ngoại vi, 3% nặng) trong phối hợp với cisplatin. Ở bệnh nhân NSCLC và bệnh nhân ung thư buồng trứng điều trị paclitaxel trong 3 giờ sau đó dùng cisplatin, ti lệ mắc độc tính thần kinh nặng tăng lên ro rệt. Bệnh thần kinh ngoại vi có thể xảy ra sau đợt điều trị đầu tiên và có thể nặng hơn khi tiếp tục dùng paclitaxel. Bệnh thần kinh ngoại vi là nguyên nhân ngừng sử dụng paclitaxel trong một số ít trường hợp. Các triệu chứng về càm giác thường được cải thiện và hồi phục trong vòng một vài tháng sau khi ngừng điều trị paclitaxel. Các bệnh thần kinh có từ trước do các liệu pháp điều trị trước đó không phải là một chống chỉ định của liệu pháp điều trị bằng paclitaxel.
Chứng đau khớp hoặc đau cơ ảnh hưởng đến 60% số bệnh nhân trong đó nặng ở 13% bệnh nhân.
Phản ứng mẫn cảm rõ rệt có thể dẫn đến tử vong (bao gồm hạ huyết áp cần điều trị, phù mạch, rối loạn hô hấp cần điều trị giãn phế quản, hoặc mày đay lan tỏa) xảy ra trên 2 trường hợp (<1%). 34% bệnh nhân (17% của tất cả các đợt) bị các phản ứng mẫn cảm nhẹ. Những phản ứng nhẹ này, chủ yếu là đỏ bừng và phát ban, không cần can thiệp điều trị hoặc ngừng sử dụng paclitaxel.
Phản ứng tại chỗ tiêm trong khi truyền tĩnh mạch có thể dẫn đến phù cục bộ, đau, ban đỏ, và cứng; hơn nữa, thoát mạch có thể gây viêm mô tế bào. Bong da và/hoặc lột da được báo cáo lại, đôi khi có liên quan đến hiện tượng thoát mạch. Rối loạn sắc tố cũng có thể xảy ra. Hiện tượng tái phát các phản ứng da tại một vị trí thoát mạch trước đó sau khi dùng paclitaxel ở một vị trí khác nói cách khác gọi là “recall” hiếm khi gặp. Phương pháp điều trị đặc biệt cho các phản ứng thoát mạch chưa được làm rõ.
Bảng dưới đây liệt kê các tác dụng không mong muốn không kể đến mức độ nặng có liên quan với việc điều trị tiêm truyền paclitaxel dơn trị liệu trong 3 giờ trong tình trạng di căn (khoảng 800 bệnh nhân điều trị trong các thử nghiệm lâm sàng) và như đã báo cáo trong quá trình giám sát sau khi lưu hành paclitaxel.
Tần suất gặp các tác dụng phụ được liệt kê dưới đây sử dụng qui ước sau:
Rất thường gặp (≥ 1/10); thường gặp (≥ 1/100 đến < 1/10); ít gặp (≥ 1/1000 đến < 1/100); hiếm (≥ 1/10000 đến < 1/1000); rất hiếm (< 1/10000).
Nhiễm trùng và nhiễm ký sinh trùng:
Rất thường gặp: nhiễm trùng (chủ yếu là nhiễm trùng đường tiểu và đường tiêu hóa trên), với một số trường hợp có báo cáo tử vong.
Ít gặp: sốc nhiễm nhiễm trùng
Hiếm gặp: viêm phổi, viêm màng bụng, nhiễm khuẩn.
Rối loạn máu và hệ thống bạch huyết:
Rất thường gặp: suy tủy, giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, chảy máu.
Hiếm gặp: giảm bạch cầu trung tính gây sốt
Rất hiếm gặp: ung thư bạch cầu dạng tủy cấp, hội chứng loạn sản tủy.
Rối loạn hệ thống miễn dịch:
Rất thường gặp: các phản ứng mẫn cảm nhẹ (chủ yếu là đỏ bừng và phát ban) Ít gặp: các phản ứng mẫn cảm rõ rệt cần phải điều trị (như hạ huyết áp, phù nề mạch thần kinh, tình trạng hô hấp nguy cấp, mày đay lan tỏa, rét run, đau lưng, tim nhịp nhanh, đau bụng, đau ở chi, toát mồ hôi và tăng huyết áp)
Hiếm gặp: các phản ứng phản vệ.
Rất hiếm gặp: sốc phản vệ
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng:
Rất hiếm gặp: chán ăn
Rối loạn tâm thần:
Rất hiếm gặp: lẫn lộn
Rối loạn hệ thống thần kinh:
Rất thường gặp: đoc tính thần kinh (thường là bệnh thần kinh ngoại vi)
Hiếm gặp: bệnh thần kinh vận động
Rất hiếm gặp: bệnh thần kinh tự chủ (dẫn đến tắc liệt ruột và hạ huyết áp thể dúng), động kinh cơn lớn, co giật, bệnh não, chóng mặt, dau đầu, mất điều vận.
Rối loạn về mắt:
Rất hiếm gặp: rối loạn dây thần kinh thị giác và/hoặc tầm nhìn (ám điểm nhấp nháy) ở bệnh nhân được điều trị liều cao hơn so với khuyến cáo.
Rối loạn về tai và mê đạo:
Rất hiếm gặp: độc với thính giác, nghe kém, ù tai, chóng mặt.
Rối loạn tim mạch:
Thường gặp: nhip tim chậm
Ít gặp: bệnh cơ tim, nhịp nhanh thất không có triệu chứng, nhịp nhanh thất với mạch nhịp đôi, chẹn AV và ngất, nhồi máu cơ tim
Rối loạn mạch:
Rất phổ biến: Hạ huyết áp
Ít gặp: Hạ huyết áp, huyết khối, viêm tĩnh mạch huyết khối,
Rất hiếm: sốc
Rối loạn hô hấp, ở ngực và trung thất:
Hiếm gặp: khó thở, tràn dịch màng phổi, viêm phổi kẽ, xơ hóa phổi, nghẽn mạch phối, suy hô hấp
Rất hiếm: ho
Rối loạn dạ dày ruột:
Rất thường gặp: Buồn nôn, nôn, tiêu chảy, viêm niêm mạc
Hiếm gặp: tắc ruột, thủng ruột, viêm kết tràng thiếu máu cục bộ, viêm tụy Rất hiếm: huyết khối mạc treo ruột, viêm kết tràng màng giả, viêm thực quản, táo bón, cố trướng, viêm kết tràng giảm bạch cầu trung tính.
Rối loạn gan mật:
Rất hiếm: hoại tử gan, bệnh não gan (cả 2 đều có trường hợp báo cáo tử vong)
Rối loạn da và mô dưới da:
Rất thường gặp: rụng lông tóc
Thường gặp: Thay đổi trên da và móng nhẹ và tạm thời
Hiếm gặp: mần ngửa, phát ban, ban đỏ
Rất hiếm: hội chứng Steven-Johnson, hoại tử biểu bì, ban đỏ đa hình, tróc vảy, viêm da, mày đay, bong móng (bệnh nhân được điều trị nên mặc đồ chống ánh sáng mặt trời ở tay và chân)
Rối loạn xương, mô liên kết và cơ xương:
Rất thường gặp: đau cơ, đau khớp
Rối loạn toàn thân và rối loạn tại chỗ tiêm:
Thường gặp: phản ứng tại chỗ tiêm (bao gồm phù cục bộ, đau, ban đỏ, cứng, thoát mạch dẫn đến viêm mô tế bảo, xơ hóa da và hoại tử da)
Hiếm gặp: suy nhược, mất nước, phù, khó chịu.
Xét nghiệm:
Thường gặp: tăng AST cao (SGOT), alkalin phosphatase tăng cao
Ít gặp: bilirubin tăng cao
Hiếm gặp: tăng creatinin máu
Bệnh nhân ung thư vú điều trị paclitaxel hỗ trợ sau liệu pháp điều trị AC cho thấy độc tính trên thần kinh cảm giác, các phản ứng quá mẫn, đau cơ/đau khớp, thiếu máu, nhiễm trùng, sốt, buồn nôn/nôn và tiêu chày nhiều hơn là bệnh nhân chỉ điều trị AC. Tuy nhiên, tần suất gặp các tác dụng phụ này phù hợp với việc điều trị bằng paclitaxel đơn độc, như đã trình bày ở trên.
Điều trị phối hợp
Những bàn luận sau đây đề cập đến những thử nghiệm lâm sàng trong điều trị ban đầu ung thư buồng trứng (paclitaxel + cisplatin: trên 1050 bệnh nhân), 2 thử nghiệm pha II trong điều trị ban đầu ung thư vú di căn: một nghiên cứu về sự phối hợp với doxorubicin (paclitaxel + doxorubicin: 267 bệnh nhân, một thử nghiệm nghiên cứu về sự phối hợp với trastuzumab (phân tích phân nhóm paclitaxel + trastuzumab: 188 bệnh nhân) và 2 thử nghiệm pha II cho diều trị NSLC tiến triển (paclitaxel + cisplatin: trên 360 bệnh nhân) (xem mục Đặc tính dưoc động học).
Khi truyền tĩnh mạch trong 3 giờ cho điều trị ban đầu ung thư buồng trứng, độc tính thần kinh, đau cơ/đau khớp, và mẫn cảm ở bệnh nhân điều trị paclitaxel sau đó dùng cisplatin hơn có tần xuất gặp cao hơn và nặng hơn ở bệnh nhân điều trị cyclophosphamid sau đó dùng cisplatin. Hiện tượng suy tủy khi truyền tĩnh mạch paclitaxel trong 3 giờ sau khi dùng cisplatin ít gặp hơn và nhẹ hơn so với dùng cyclophosphamid sau đó dùng cisplatin.
Trong điều trị hóa trị liệu ban đầu cho ung thư vú di căn, giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, bệnh thần kinh ngoại vi, đau cơ/đau khớp, suy nhược, sốt, và tiêu chảy được báo cáo là có tần suất gặp cao hơn và nặng hơn khi truyền tĩnh mạch paclitaxel (220mg/m²) trong 3 giờ cách 24 giờ sau khi tiêm truyền doxorubicin (50 mg/m2) so với liệu pháp FAC chuẩn (5-FU 500mg/m2, doxorubicin 50 mg/m2, cyclophosphamid 500mg/m2). Buồn nôn và nôn trong chế độ paclitaxel (220mg/m2)/doxorubicin (50mg/m2) ít gặp hơn và nhẹ hơn so với liệu pháp FAC chuẩn. Việc sử dụng corticosteroid có thể góp phần làm giảm tần suất và mức độ nặng của nôn và buồn nôn của liệu trình paclitaxel/doxorubicin.
Khi paclitaxel truyền tĩnh mạch trong 3 giờ phối hợp với trastuzumab trong điều trị ban đầu cho bệnh nhân ung thư vú di căn, những tác dụng phụ sau (có thể có liên quan tới paclitaxel hoặc trastuzumab) được báo cáo là thường gặp hơn so với paclitaxel đơn trị liệu: suy tim (8% so với 1%), nhiễm trùng (46% so với 27%), rét run (42% so với 4%), sốt (47% so với 23%), ho (42% so với 22%), phát ban (39% so với 18%), đau khớp (37% so với 21%), tim đập nhanh (12% so với 4%), tiêu chảy (45% so với 30%), tăng trương lực (11% so với 3%), chày máu cam (18% so với 4%), viêm nang lông (11% so với 3%), herpes (12% so với 3%), tổn thương do tai nạn (13% so với 3%), mất ngủ (25% so với 13%), viêm mũi (22% so với 5%), viêm xoang (21% so với 7%), và phản ứng tại chỗ tiêm (7% so với 1%). Một số trường hợp trong những khác biệt này có thể là do số lượng và khoảng thời gian điều trị phối hợp pacitaxel/trastuzumab tăng so với paclitaxel đơn trị liệu. Một số phần ứng nặng dược ghi lại có cùng tỉ lệ ở cả 2 nhóm paclitaxel/trastuzumab và điều trị paclitaxel đơn trị liệu.
Khi doxorubicin dùng phối hợp với paclitaxel trong ung thư vú di căn, đã quan sát thấy co cơ tim bất thường (giảm ≥ 20% tỉ lệ tống máu tâm thất trái) trên 15% bệnh nhân so với 10% bệnh nhân đùng chế độ FAC tiêu chuẩn. Suy tim xung huyết được nhận thấy ở < 1% số bệnh nhân cho cả 2 nhóm paclitaxel/doxorubicin và FAC tiêu chuẩn. Việc điều trị trastuzumab trong phối hợp với paclitaxel cho bệnh nhân trước đó đã diều trị bằng các anthracyclin làm tăng tần số và mức do của rối loạn chức năng tim so với bệnh nhân điều trị paclitaxel đơn độc (NYHA loại I/II 10% so với 0%; NYHA loại II/IV 2% so với 1%) và hiếm có liên quan đến tử vong (xem tóm tắt đặc tính của trastuzumab). Trong tất cả các trường hợp trừ một số hiếm trường hợp, bệnh nhân có đáp ứng với điều trị y tế thích hợp.
Viêm phổi do chiếu xạ được báo cáo ở bệnh nhân điều trị cùng lúc với xạ trị.
Sarcom Kaposi có liên quan đến AIDS
Trừ các tác dụng phụ trên gan và máu (xem dưới đây), tần suất và mức độ gặp các tác dụng phụ là tương tự giữa nhóm bệnh nhân KS và bệnh nhân điều trị paclitaxel đơn trị liệu cho các khối u rắn, dựa trên một nghiên cứu lâm sàng bao gồm 107 bệnh nhân.
Rối loạn máu và hệ bạch huyết: suy tủy xương là một độc tính chủ yếu phụ thuộc vào liều. Giảm bạch cầu trung tính là độc tính quan trọng nhất trên máu. Trong suốt đợt điều trị đầu tiên, chứng giảm bạch cầu trung tính nặng (<500 tế bào/mm3) xảy ra trên 20% bệnh nhân. Trong toàn bộ quá trình điều trị, chứng giảm bạch cầu trung tính nặng nhận thấy trên 39% số bệnh nhân. Giảm bạch cầu trung tính tồn tại > 7 ngày trên 41% và trong 30-35 ngày trên 8% bệnh nhân. Nó hồi phục trong vòng 35 ngày ở tất cả các bệnh nhân được theo dõi. Tỉ lệ mắc giảm bạch cầu trung tính mức độ 4 kéo dài ≥ 7 ngày là 22%.
Sốt do giảm bạch cầu trung tính có liên quan đến paclitaxel dược ghi lại trên 14% số bệnh nhân và trong 1,3% số đợt điều trị. Có 3 trường hợp bị nhiễm khuẩn (2,8%) trong khi dùng paclitaxel có liên quan đến thuốc gây tử vong.
Giảm tiểu cầu được nhận thấy trên 50% bệnh nhân, và nặng (< 50000 tế bào/mm3) trên 9%. Chỉ 14% bị giảm tiểu cầu xuống < 75000 tế bào/mm3, ít nhất một lần trong khi điều trị. Hiện tượng chảy máu có liên quan đến paclitaxel được báo cáo < 3% số bệnh nhân, nhưng xuất huyết được khu trú.
Thiếu máu (Hb < 11g/dL) nhận thấy trên 61% bệnh nhân và nặng (Hb < 8 g/dL) trên 10%. Truyền máu được yêu cầu trên 21% bệnh nhân.
Rối loạn gan mật: Trong số các bệnh nhân (> 50% về các chất ức chế protease) có chức năng gan bình thường, 28%, 43% và 44% có biểu hiện bilirubin, alkalin phosphatase và AST (SGOT) tương ứng. Với mỗi thông số này, mức độ tăng nặng trên 1% số bệnh nhân.
Thông báo ngay cho bác sỹ hoặc dược sỹ những phản ứng có hại gặp phải khi sử dụng thuốc.
Chưa có thuốc giải độc khi dùng quá liều paclitaxel. Trong trường hợp quá liều, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ. Điều trị cần được hướng vào các độc tính chính được dự đoán trước, trong đó bao gồm ức chế tủy xương, nhiễm độc thần kinh ngoại vi và viêm niêm mạc. Quá liều ở bệnh nhi có thể được liên quan đến độc tính cấp của ethanol.
Cần tham vấn ý kiến bác sỹ khi:
Nhóm dược lý – điều trị mã ATC: Chất độc tế bào, L01CD01.
Paclitaxel là thuốc mới chống vi ống, tập hợp được các vi ống từ ống nhị phân tử và ổn định các vi ống do ức chế quá trình giải trùng hợp. Sự ổn định này ức chế sự tổ chức lại bình thường của lưới vi ống, là điều cốt yếu cho pha nghi (gian kỳ) của quá trình phân bào giảm nhiễm và hoạt động của ty lạp thể. Hơn nữa, paclitaxel cũng thúc đẩy hình thành các cấu trúc bất thường của các bó vi ống từ đầu tới cuối chu kỳ của tế bào, thúc đẩy vô số các thể sao của vi ổng trong thời kỳ gián phân.
Trong hóa trị liệu điều trị ung thư buồng trứng, hiệu quả và độ an toàn của paclitaxel được đánh giá trong 2 thử nghiệm chính, ngẫu nhiên, có đối chứng (so với cyclophosphamid 750 mg/m/cisplatin 75 mg/m2). Trong thử nghiệm giữa các nhóm, trên 650 bệnh nhân ung thư buồng trứng nguyên phát giai đoạn IIb-c, III hoặc IV được điều trị tối đa 9 đợt paclitaxel (175 mg/m2 trong 3 giờ) sau đó dùng cisplatin (75mg/m²) hoặc giả dược. Thử nghiệm chính thứ 2 (GOG-111/BMS CA139-022) đã đánh giá trên tối đa 6 đợt điều trị paclitaxel (135 mg/m2 trong 24 giờ) sau đó cisplatin (75 mg/m2) hoặc giả được trên 400 bệnh nhân ung thư buồng trứng nguyên phát giai đoạn III/IV, với di căn > lcm sau khi giải phẫu bụng hoặc di căn xa. Trong khi 2 cách dùng paclitaxel khác nhau không so sánh trực tiếp dưoc với nhau thi trong cà 2 thử nghiệm bệnh nhân điều trị paclitaxel phối hợp với cisplatin có ti lệ đáp ứng cao hơn rõ rệt, thời gian để bệnh tiến triển kéo dài hơn, thời gian sống sót lâu hơn khi so sánh với liệu pháp tiêu chuẩn. Dộc tính thần kinh, đau cơ/dau khớp tăng nhưng suy tủy giảm được nhận thấy trên các bệnh nhân ung thư buồng trứng tiến triển truyền tĩnh mạch paclitaxel trong 3 giờ sau đó cisplatin so với bệnh nhân điều trị cyclophosphamid/cisplatin.
Trong điều trị hỗ trợ ung thư vú, 3121 bệnh nhân ung thư vú có hạch dương tính được điều trị hỗ trợ bằng paclitaxel hoặc không điều trị hóa trị liệu sau 4 đot diều trị doxorubicin và cyclophosphamid (CALGB 9344, BMS CA 139-223). Thời gian theo dõi trung bình là 69 tháng. Nhìn chung, các bệnh nhân điều trị bằng paclitaxel giảm rõ rệt 18% nguy cơ tái phát bệnh ở các bệnh nhân điều trị AC đơn độc (p=0,0014) và giảm rõ rệt 19% nguy cơ tử vong (p-0,0044) ở các bệnh nhân điều trị AC đơn độc. Các phân tích hồi cứu chỉ ra lợi ích của tất cả các bệnh nhân. Các bệnh nhân có khối u chưa xác định hoặc không có thụ thế hormon, nguy cơ tái phát bệnh giảm 28% (95% CI: 0,59-0,86). Trong phân nhóm bệnh nhân có thụ thể hormon, nguy cơ tái phát bệnh giảm 9% (95% CI: 0,78-1,07). Tuy nhiên, thiết kế nghiên cứu không điều tra tác dụng của liệu pháp AC mở rộng quá 4 đợt điều trị. Không thể loại trừ khả năng những tác dụng quan sát được có thể một phần là đo sự khác biệt về khoảng thời gian điều trị hóa trị giữa 2 nhóm (AC 4 đợt điều trị; AC + paclitaxel 8 đợt). Vì vậy, điều trị hỗ trợ bằng paclitaxel nên được coi là một lựa chọn đối với liệu pháp AC mở rộng.
Trong một nghiên cứu lâm sàng lớn thứ 2 trong hỗ trợ diều trị ung thư vú có hạch dương tính với một thiết kế tương tự, 3060 bệnh nhân sau 4 đợt điều trị AC (NSABP B-28, BMS CA139-270) sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên để điều trị hoặc không điều trị 4 đợt paclitaxel với mức liều cao hơn là 225mg/m² Trong khoảng thời gian theo dõi trung bình 64 tháng, các bệnh nhân đùng paclitaxel giảm rõ rệt 17% nguy cơ tái phát bệnh so với bệnh nhân chỉ điểu trị bằng AC (p-0,006); việc điều trị bằng paclitaxel làm nguy cơ tử vong giảm xuống 7% (95% CI: 0,78-1,12). Tất cả các phân tích đều cho thấy lợi thế thiên về nhóm bệnh nhân dùng paclitaxel. Trong nghiên cu này, các bệnh nhân có khối u có thụ thể hormon giảm nguy cơ tái phát bệnh xuống 23% (95% CH: 0,6-0.92); trong phân nhóm bệnh nhân có khối u không có thụ thể hormon nguy cơ tái phát bệnh giảm 10% (95% Cl: 0,7-1,11). Trong điều trị ban đầu ung thư vú di căn, hiệu quả và độ an toản của paclitaxel được đánh giá trong 2 thử nghiệm then chốt có đối chứng, ngẫu nhiên, pha III. Trong nghiên cu đầu tiên (BMS CA139- 278), sự phối hợp điều trị bằng đoxorubicin (50mg/m2) cách 24 giờ truyền tiếp paclitaxel (220mg/m2 truyền tĩnh mạch trong 3 giờ) (AT), dược so với chế độ liều FAC tiêu chuẩn (5-FU 500mg/m2, doxorubicin 50mg/m2, cyclophosphamid 500mg/m2), cả 2 chế độ đều đưoc áp dụng 3 tuần 1 lần cho 8 đợt điều trị. Trong thử nghiệm ngẫu nhiên này, 267 bệnh nhân bị ung thư vủ di căn không điều trị hỏa trị liệu trước đó hoặc chi điều trị hóa trị liệu không anthracyclin trong liệu pháp bổ trợ tham gia nghiên cứu. Các kết quả cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa về thoi gian bệnh tiến triển của bệnh nhân điều trị AT so với bệnh nhân điều trị FAC (8,2 so với 6,2 tháng; p 0,029). Thời gian sống trung bình thiên về nhóm paclitaxel/doxorubicin so với nhóm dùng FAC (23,0 so với 18,3 tháng; p-0,004). Trong các nhóm điều trị AT và FAC, 44% và 48% tương ứng điều trị hóa trị liệu tiếp theo bao gồm các taxan trong 7% và 50% tương ứng. Ti lệ đáp ứng chung cao hơn rõ rệt ở nhóm AT so với nhóm FAC (68% so với 55%). Đáp ứng toàn bo duoc nhận thấy trên 19% bệnh nhân trong nhóm paclitaxel/doxorubicin so với 8% trong nhóm FAC. Tất cả các kết quả về hiệu quả của thuốc sau đó đã được khẳng định trong một đánh giá tổng hợp độc lập và mù.
Trong nghiên cứu chính thứ 2, về hiệu quả và độ an toàn của paclitaxel khi phổi hợp với trastuzumab (Herceptin) dưoc xác định trong nghiên cứu HO648g (bệnh nhân ung thư vú di căn điều trị hỗ trợ bằng anthracyclin). Tác dụng của Herceptin trong phối hợp với paclitaxel ở bệnh nhân không điều trị hỗ trợ bằng anthracyclin trước đó vẫn chưa dưoc chứng minh. Sự phối hop trastuzumab (4mg/kg liều đầu sau đó 2 mg/kg mỗi tuần) và paclitaxel (175 mg/m2) truyền tĩnh mạch trong 3 giờ, 3 tuần 1 lần so với paclitaxel dơn trị liệu (175 mg/m2) truyền finh mạch trong 3 giờ, 3 tuần 1 lần trên 188 bệnh nhân ung thư vú di căn biểu hiện quá mức HER2 (2+ hoặc 3+ xác định bằng hóa mô miễn dịch) trước đó dã được điều trị bằng anthracyclin. Paclitaxel được điều trị 3 tuần 1 lần cho ít nhất 6 đợt điều trị trong khi trastuzumab được truyền tĩnh mạch hàng tuần cho đến khi bệnh tiến triển. Nghiên cứu cho thấy lợi ích rõ rệt của việc phối hợp paclitaxel/trastuzumab về thời gian bệnh tiến triển (6,9 so với 3,0 tháng), tỉ lệ đáp ứng (41% so với 17%), và khoảng thời gian đáp ứng (10,5 so với 4,5 tháng) khi so sảnh với paclitaxel đơn trị liệu. Độc tính có ý nghĩa nhất quan sát được từ sự phối hợp paclitaxel/trastuzumab là rối loạn chức năng tim (xem mục Tác dụng không mong muốn).
Trong điều trị NSCLC tiến triển, liều paclitaxel 175 mg/m2 sau đó là cisplatin 80 mg/m2 đã được đánh giá trong 2 thử nghiệm pha III (367 bệnh nhân điều trị bằng paclitaxel). Cả 2 thử nghiệm đều ngẫu nhiên, một so sánh với điều trị bằng cisplatin 100 mg/m2, một sử dung teniposid 100 mg/m2 sau đó cisplatin 80 mg/m2 là chất so sánh (367 bệnh nhân nhóm so sánh). Các kết quả trong mỗi thử nghiệm là tương tự. Đối với kết quả chinh trên lâm sàng về tử vong, cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa chế độ điều trị có paclitaxel và nhóm đối chứng (thời gian sống trung bình 8,1 và 9,5 tháng đối với điều trị bằng paclitaxel, 8,6 và 9,9 tháng đối với các chất so sánh). Tương tự, về thời gian sống không có tiến triển bệnh, cho thấy không có sự khác biệt giữa các nhóm điều trị. Có lợi ích rõ rệt về tỉ lệ đáp ứng trên lâm sàng. Các kết quả về cải thiện chất lượng cuộc sống thể hiện tử lợi ích của việc điều trị bằng paclitaxel về chứng chán ăn và những bằng chứng rõ ràng của việc điều trị bằng paclitaxel về bệnh thần kinh ngoại vi (p< 0,008).
Trong điều trị bệnh nhân AIDS có khối u sarcom Kaposi, hiệu quả và độ an toàn của paclitaxel đã duợc đánh giá trong một nghiên cứu không so sánh trên bệnh nhân bệnh nhân AIDS có khối u sarcom Kaposi tiến triển dã điều trị hóa trị liệu trước đó. Chỉ tiêu đánh giá lâm sàng chính là đáp ứng của khối u sau điều trị. Trong số 107 bệnh nhân, 63 được xem là đề kháng với anthracyclin liposom. Phân nhóm này được coi là nhóm trung tâm để đánh giá hiệu quả điều trị. Tỉ lệ thành công chung (đáp ứng toàn bộ/cục bộ) sau 15 đợt điều trị là 57% (CI 44-70%) ở các bệnh nhân đề kháng với anthracyclin liposom. Trên 50% đáp ứng là rõ rệt sau 3 đợt điều trị đầu tiên. Ở các bệnh nhân đề kháng anthracyclin liposom, tỉ lệ đáp ứng có thể so sánh được giữa các bệnh nhân không điều trị bằng chất ức chế protease (55,6%) so với bệnh nhân được điều trị bằng chất ức chế protease ít nhất trong 2 tháng trước khi điều trị paclitaxel (60,9%). Khoảng thời gian trung bình để bệnh tiến triển trong nhóm quần thể trung tâm là 468 ngày (95%CI 257-NE). Thời gian sống sót trung bình chưa tính toán được nhưng tỉ lệ thấp hơn 95% là 617 ngày trong nhóm bệnh nhân trung tâm.
Khi truyền tĩnh mạch, nồng độ paclitaxel trong huyết tương tỷ lệ thuận với liều truyền vào và giảm theo đồ thị 2 pha.
Động học của paclitaxel được xác định theo quy trình truyền 3 giờ và 24 giờ với các liều 135 và 175 mg/m2. Thời gian bán thải cuối cùng tính trung bình là 3,0-52,7 giờ, còn giá trị trung bình của độ thanh thải toàn thân không phụ thuộc các khoảng là 11,6 đến 24,0 lít/giờ/m2 độ thanh thải toàn thân sẽ giảm theo nồng độ cao hơn của paclitaxel trong huyết tương. Thể tích phân bố trung bình ở trạng thái ổn định là 198-688 lít/m2, chứng to có sự phân bố rộng rãi ở ngoài mạch máu và/hoặc gắn mạnh vào mô. Nếu truyển 3 giờ và tăng liều paclitaxel sẽ gặp dược đong học không tuyến tính. Nếu tăng 30% liều, từ 135mg/m2 lên 175mg/m2, thì Cmax tăng 75% giá trị AOCO- sẽ tăng 81%.
Sau khi truyền tĩnh mạch liều 100mg/m2 trong 3 giờ trên 19 bệnh nhânKS, Cmax trung bình là 1530 ng/ml (khoảng biến thiên 761 – 2860 ng/ml) và AUC trung binh 5619 ng.h/ml (khoảng biến thiên 2609 – 9428 ng.h/ml). Độ thanh thải là 20,6 1/h/m2 (biến thiên 11-38) và thể tích phân phối là 291 l/m? (khoảng biển thiên 121-638). Thời gian bản thái cuối cùng trung bình là 23,7 giờ (biến thiên 12-33 giờ).
Rất ít có thay đổi giữa các cá thế về sự phân bố paclitaxel trong toàn cơ thể. Chưa có chứng cớ về tích lũy paclitaxel khi dùng nhiều đợt điều trị.
Nghiên cứu invitro cho thấy thuốc gắn 89-98% vào protein huyết tương người. Sự có mặt của cimetidin, ranitidin, dexamethason hoặc diphenhydramin không có ânh hưởng tới sự gắn kết của paclitaxel vào protein.
Sự phân bố của paclitaxel trên người chưa được sáng tỏ. Giá trị trung bình về tổng lượng paclitaxel thải qua nước tiểu chi là 1,3-17,6% của liều dùng, chứng tỏ có thanh thải không qua thận. Chuyển hóa qua gan và thanh thai qua thận có thể là cơ chế chủ yếu của việc đào thải của paclitaxel. Paclitaxel chuyển hóa chủ yếu qua gan nho xúc tác của các enzym cytocrom P450. Khi truyền paclitaxel đánh dấu, thấy trung bình chất đánh dấu thải qua phân là các chất chuyển hóa sau: 26% 6- alpha- hydroxy – paclitaxel, 2% là 3′ – p – dihydroxy – paclitaxel, còn 6% là 6 – alpha – hydroxy paclitaxel, còn 6% là 6 – alpha 3′ – p hydroxy paclitaxel. Sự chuyển hóa để cho ra các chất chuyển hóa hydroxy này dược xúc tác nhờ CYP2C8, CYP3A4 hoặc nhờ cả 2 enzym này. Chưa xác định được ành hưởng của suy chức năng gan thận tới phân bố của paclitaxel khi truyền 3 giờ. Những thông số dược động học đạt được từ một bệnh nhân qua thẩm tách loc máu được truyền 3 giờ paclitaxel 135mg/m là ở trong phạm vi các thông số dã đưoc xác định ở những bệnh nhân không qua thẩm phân.
Trong các thử nghiệm lâm sàng trong đó paclitaxel và doxorubicin diều trị dồng thời, phân phối và thải trừ của doxorubicin và các chất chuyển hóa của thuốc được kéo dài. Tổng nồng độ doxorubicin trong huyết tương khi điều trị paclitaxel ngay sau doxorubicin cao hơn 30% so với khi 2 thuốc điều trị cách nhau 24 giờ.
Khi paclitaxel phối hợp điều trị với các liệu pháp khác, để nghị xem tóm tắt đặc tính của cisplatin, doxorubicin hoặc trastuzumab để biết thông tin về cách dùng các thuốc này.
Hiện chưa có thông tin. Đang cập nhật.
Thuốc Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml được bào chế dưới dạng dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền, được đựng trong lọ hợp vệ sinh, bên ngoài là hộp giấy cartone màu trắng + xanh. Mặt trước phía góc dưới hộp là dải màu xanh bên trên là màu trắng có in tên thuốc màu đỏ, số 30mg được in đậm to màu đen và thông tin chi tiết về thành phần, nhà sản xuất, chỉ định, cách dùng, ….
Nên bảo quản ở những nơi khô ráo, thoáng mát, nhiệt độ từ dưới 30 độ C và để xa tầm tay của trẻ em.
Thao tác dùng thuốc: Như tất cả các thuốc chống ung thư khác, nên thận trọng khi thao tác với paclitaxel. Thuốc chỉ pha trong điều kiện vô khuẩn bởi nhân viên y tế có kinh nghiệm và trong khu vực được thiết kế đặc biệt. Khuyến cáo sử dụng găng tay bảo vệ. Nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa để tránh thuốc tiếp xúc với da và niêm mạc. Nếu paclitaxel tiếp xúc với da, cần rửa sạch và kỹ vùng da bị tiếp xúc với thuốc bằng xà phòng và nước. Đã quan sát thấy vùng da sau khi tiếp xúc với thuốc bị ngứa, rát và đỏ. Nếu niêm mạc bị dính paclitaxel, phải rửa kỹ vùng bị tiếp xúc bằng nước. Đã ghi nhận hiện tượng khó thở, đau ngực, nóng rát họng, nôn mửa khi hít phải thuốc.
Không nên sử dụng thiết bị Chemo-Dispensing Pin hoặc các thiết bị tương tự có mũi nhọn do có thể làm hỏng nắp cao su của lọ thuốc dẫn đến thuốc không còn được vô trùng.
Chuẩn bị dịch truyền: Trước khi truyền, phải pha loãng paclitaxel trong điều kiện vô khuẩn với dung dịch natri clorid đẳng trương 0,9% hoặc dung dịch glucose 5% đến nồng độ cuối 0,3 – 1,2 mg paclitaxel/ml để làm dịch truyền.
Dung dịch được chuẩn bị để truyền ổn định ở nhiệt độ phòng trong vòng 27 giờ. Người sử dụng chịu trách nhiệm về thời gian và điều kiện bảo quản. Không bảo quản dung dịch đã được pha loãng trong tủ lạnh.
Sau khi chuẩn bị, dung dịch có thể tạo dạng do dung môi bị cô đặc; dạng này không được loại bỏ trong quá trình lọc. Dung dịch truyền paclitaxel phải được lọc qua màng xốp (in-line filter) với kích thước lỗ màng < 0,22 microgram. Đã ghi nhận được hiệu lực của thuốc không bị giảm trong một thử nghiệm với hệ thống lọc in-line thích hợp.
Mặc dù hiếm khi ghi nhận được trường hợp kết tủa trong quá trình truyền paclitaxel, thường vào cuối 24 giờ truyền, không quan sát thấy kết tủa trong các nghiên cứu về độ ổn định của paclitaxel. Để làm giảm nguy cơ xuất hiện kết tủa, sau khi đã pha loãng dung dịch để truyền, nên dùng paclitaxel sóm nhất ngay khi có thể. Nên tránh lắc thuốc quá mạnh. Nguyên nhân xuất hiện kết tủa chưa rõ ràng, tuy nhiên dưoc giả định rằng hiện tượng này liên quan đến mức độ quá bão hòa của dung dịch được pha loãng.
Bộ truyền phải được rửa kỹ trước khi sử dụng. Trong quá trình truyền, nên kiểm tra dịch truyền thường xuyên và nếu có xuất hiện kết tủa nên ngừng truyền.
Để hạn chế bệnh nhân phơi nhiễm với DEHP (bis(2-ethylhexyl)phthalate] nhiễm từ túi PVC đựng dịch truyền, dung dịch Paclitaxel (dung dịch đã pha loãng) phải được bảo quản trong các bao bì (thủy tinh, polyethylene) không chứa PVC hoặc làm bằng PVC và thuốc được truyền qua dây bằng polyethylene. Dụng cụ lọc (ví dụ lvex-2) có đầu vào ngắn hoặc đầu ra bằng PVC không làm giải phóng có ý nghĩa DEHP.
Xử lý thuốc: paclitaxel không được sử dụng và tất cả các dụng cụ được sử dụng để chuẩn bị và truyền paclitaxel hoặc đã tiếp xúc với paclitaxel cần phải được xử lý theo các hướng dẫn quốc gia/địa phương về xử lý các chất độc.
24 tháng kể từ ngày sản xuất.
Sử dụng trong vòng 28 ngày kể từ khi mở nắp lọ.
Về mặt hóa học và vật lý, sản phẩm ổn định ở nhiệt độ phòng trong vòng 28 ngày sau khi mở nắp lọ. Khuyến cáo sử dụng sản phẩm ngay sau khi rút thuốc ra khỏi lọ. Tuy nhiên về mặt vi sinh, sản phẩm có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng trong vòng 28 ngày sau khi rút thuốc lần đầu.
Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền paclitaxel đã pha trong dung dịch glucose 5% và natri clorid 0,9% là 2 tuần nếu bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 5°C ± 3°C.
Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền paclitaxel đã pha trong dung dịch glucose 5% là 1 tuần nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng (20°C ± 3°C), không tránh ánh sáng.
Thời gian bảo quản tối đa của dung dịch truyền paclitaxel đã pha trong dung dịch natri clorid 0,9% là 5 ngày nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng, không tránh ánh sáng.
Về mặt vi sinh vật học, cần dùng ngay lập tức dung dịch đã pha chế. Nếu không thể sử dụng ngay được thì thời gian bảo quản và các điều kiện để sử dụng thuộc trách nhiệm của người dùng.
Ngày sản xuất và hạn sử dụng được in trên bao bì sản phẩm.
Để đảm bảo sức khỏe thì không nên sử dụng sản phẩm đã quá hạn.
Hộp 1 lọ x 5ml, kèm toa hướng dẫn sử dụng.
Khối lượng tịnh: 50g.
Dạng bào chế: dung dịch đậm đặc pha dung dịch tiêm truyền.
Thuốc Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml có thể được bán tại các nhà thuốc, bệnh viện trên toàn quốc, hoặc quý vị có thể đặt hàng ngay trên các trang web. Hiện sản phẩm cũng đang được bán chính hãng tại hệ thống Nhà Thuốc Thân Thiện.
Thuốc Paclitaxel “Ebewe” 30mg/5ml có giá bán trên thị trường hiện nay là: 0.000đ/ hộp 1 lọ. Mức giá trên có thể bao gồm cả cước phí vận chuyển tới tận tay người tiêu dùng.
Tùy theo từng đơn vị phân phối mà giá bán có thể sẽ bị chênh lệnh nhau, tuy nhiên mức chênh lệch cũng không đáng kể.
Số đăng ký lưu hành: VN-20292-16
Công ty sản xuất: Ebewe Pharma Ges.m.b.H Nfg.KG.
Địa chỉ: Mondseestrasse 11, 4866 Unterach am Attersee Úc.
Công ty đăng ký: Công ty TNHH Thương mại và Dược phẩm Sang.
Úc
Không có bình luận nào
Không hiển thị thông báo này lần sau.
Võ Quốc Thọ Đã mua tại nhathuocthanthien.com.vn
Sản phẩm tem mạc đầy đủ, giáo hàng nhanh đáng tin cậy mới dùng nên chưa biết hiệu quả ,giá tiền phù hợp, nếu sản phẩm hiệu quả sẽ quay lại ủng hộ shop tiếp ạ
Đặng Hoàng Phi Đã mua tại nhathuocthanthien.com.vn
Giao hàng nhanh ạ hàng chính hãng 100% đó ah